Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ỨNG HÒA – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 22 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 251/2020/TLST- HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 01/2021/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

*Nguyên đơn: Chị Vũ Thị T – sinh năm 1984 (có mặt) Nguyên quán: Thôn C, xã C1, huyện P, TP Hà Nội Nơi ĐKHKTT: Thôn G, xã M, huyện Ư, TP. Hà Nội

*Bị đơn: Anh Trần Văn T1 – sinh năm 1982 (vắng mặt) Nguyên quán và nơi ĐKHKTT: Thôn G, xã M, huyện Ư, TP. Hà Nội

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn ly hôn và các biên bản tại Tòa chị Vũ Thị T là nguyên đơn trình bày: Chị và anh Trần Văn T1 qua một thời gian tìm hiểu thì cả hai kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã M năm 2009. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, không thể tìm thấy tiếng nói chung. Đặc biệt anh T1 không chịu khó làm ăn, suốt ngày rượu chè rồi về nhà chửi đánh chị cũng như chửi mắng các con. Suốt chục năm qua, mọi việc trong nhà từ dọn dẹp, lo kinh tế đều do chị cáng đáng nhưng anh T1 luôn gây sự, chửi đánh chị. Chị và gia đình đã khuyên bảo nhiều lần, bản thân chị cũng cố gắng nhẫn nhịn để mong vợ chồng có cuộc sống hạnh phúc nhưng càng cố gắng bao nhiêu thì tình cảm vợ chồng càng phai nhạt bấy nhiêu. Vào dịp 30/4/2020, vợ chồng mâu thuẫn, anh T1 đuổi chị ra khỏi nhà nên chị đã phải về ngoại ở cho đến nay. Sauk hi về ngoại ở, anh T1 còn đến gây sự bên gia đình bên ngoại. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt, mâu thuẫn đã quá trầm trọng, sống ly thân đã được một thời gian không thể nào quay về đoàn tụ được nên chị đề nghị Tòa giải quyết cho chị được ly hôn anh T1. Về con chung: chị và anh T1 có 02 con chung là Trần Thị N – sinh ngày 05/02/2011 và Trần Văn P – sinh ngày 25/9/2012. Cả hai cháu hiện đang ở với anh T1. Khi ly hôn, chị đề nghị Tòa giải quyết cho chị được nuôi cả hai con và không yêu cầu anh T1 cấp dưỡng tiền nuôi con vì: Từ khi sinh con, một mình chị chăm sóc các con, lo toan kinh tế; bản thân anh T1 không có công ăn việc làm suốt ngày ăn chơi rượu chè; thường xuyên chửi bới đánh đập vợ con; bản thân chị đang là công nhân có mức lương thu nhập ổn định. Nếu anh T1 nuôi con chị sợ sẽ ảnh hưởng sự phát triển tâm sinh lý của các cháu. Về tài sản, công nợ chung: chị không yêu cầu đề nghị Tòa giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai, anh Trần Văn T1 là bị đơn trình bày: Anh và chị Vũ Thị T chung sống không có gì xảy ra xô xát trầm trọng. Trong thời gian chung sống, chị T đã tự ý bỏ về nhà ngoại 03 lần. Lần nào anh cũng đến xin lỗi và đón về. Xong giữa năm 2020, tự ý chị T về ngoại, anh đã xuống xin lỗi, phân tích, khuyên bảo nhưng chị T không về. Anh rất yêu thương chị T, chỉ mong chị về đoàn tụ. Nên đề nghị Tòa giải quyết để vợ chồng đoàn tụ, trường hợp chị T vẫn cương quyết thì Tòa giải quyết theo quy định pháp luật. Về con chung có 02 con như chị T trình bày là Trần Thị N – sinh ngày 05/02/2011 và Trần Văn P – sinh ngày 25/9/2012. Hiện hai cháu đang ở với anh, lúc nào anh cũng mong muốn vợ chồng đoàn tụ để nuôi con; trường hợp không đoàn tụ thì đề nghị Tòa giải quyết theo quy định pháp luật. Về tài sản, công nợ: anh không đề nghị Tòa giải quyết.

Tại phiên tòa ngày hôm nay, anh Trần Văn T1 vắng mặt; chị Vũ Thị T có mặt và không ai xuất trình thêm tài liệu chứng cứ nào khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ứng Hòa có quan điểm: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thực hiện đầy đủ các quy định về tố tụng dân sự như tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho các đương sự, tạo điều kiện cho họ được trình bày quan điểm, tiến hành hòa giải theo đúng quy định. Hội đồng tiến hành xét xử vụ án đúng quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án: đề nghị Tòa giải quyết xử cho chị Vũ thị T được ly hôn anh Trần Văn T1. Về con chung, giao cho chị T là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Trần Thị N - sinh ngày 05/02/2011; giao anh T1 là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Trần Văn P - sinh ngày 25/9/2012; tạm hoãn tiền cấp dưỡng nuôi con đối với chị chị T và anh T1 cho đến khi có thay đổi khác. Chị T phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Vũ Thị T đã làm đơn ly hôn theo mẫu và đã đóng dự phí ly hôn theo đúng quy định của pháp luật. Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình, Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa tiến hành thụ lý, giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án toà án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, triệu tập anh Trần Văn T1 đến toà án làm việc theo đúng trình tự của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng anh T1 không có mặt. Hội đồng xét xử đã mở phiên toà ngày 06/01/2021 nhưng do sự vắng mặt của anh T1 nên Hội đồng xét xử hoãn phiên toà, tại phiên toà hôm nay mặc dù được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng anh T1 vẫn vắng mặt; căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về hôn nhân: Chị Vũ Thị T và anh Trần Văn T1 kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã M, huyện Ứng Hòa, TP. Hà Nội ngày 04/8/2009 là hôn nhân hợp pháp. Sau một thời gian chung sống hạnh phúc thì xảy ra muân thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, không tìm thấy tiếng nói chung; anh T1 không tu chí làm ăn luôn uống rượu rồi chửi mắng vợ con; đặc biệt từ giữa năm 2020 thì hai vợ chồng sống ly thân nhau không ai quan tâm đến ai. Nay chị T cương quyết xin ly hôn anh T1. Anh T1 có ý kiến mong muốn đoàn tụ nếu chị T cương quyết xin ly hôn thì anh đề nghị Tòa giải quyết theo quy định của pháp luật.

Qua xác minh tại chính quyền địa phương cung cấp: Sau khi kết hôn, chị T và anh T1 sinh sống tại địa phương, chị T làm công nhân còn anh T1 thì ở nhà thỉnh thoảng đi mò cua, bắt ốc. Anh chị có 02 con chung. Cuộc sống chung vợ chồng liên tục mâu thuẫn nguyên nhân do anh T1 không tu chí làm ăn, rượu vào thì chửi mắng vợ con. Vợ chồng đã ly thân được một thời gian. Nay chị T có đơn ly hôn và nguyện vọng được nuôi con, chính quyền địa phương có ý kiến: đề nghị Tòa căn cứ vào thực tế và quy định của pháp luật để giải quyết đảm bảo quyền lợi của người phụ nữ cũng như quyền lợi, sự phát triển, ổn định của trẻ em.

Xét thấy: Cuộc sống giữa chị T và anh T1 mẫu thuẫn đã đến mức trầm trọng, sống ly thân đã một thời gian, mục đích hôn nhân không đạt. Hội đồng xét xử chấp nhận đơn xin ly hôn của chị T là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình.

[3] Về con chung: Chị Vũ Thị T và anh Trần Văn T1 có 02 con chung là Trần Thị N – sinh ngày 05/02/2011 và Trần Văn P – sinh ngày 25/9/2012. Chị T đề nghị Tòa giải quyết cho chị nuôi cả hai con và không yêu cầu anh T1 cấp dưỡng; anh T1 thì đề nghị Tòa giải quyết theo quy định pháp luật.

Căn cứ vào điều kiện nuôi con của chị T và anh T1 cũng như điều kiện địa lý hai bên gia đình nội ngoại và hiện trạng môi trường ăn ở, học tập và nguyện vọng của các cháu. Xét thấy, chị T là công nhân, anh T1 không có công việc ổn định và cả hai anh chị đều có chỗ ở ổn định; hai bên gia đình nội ngoại lại gần nhau nên chị T và anh T1 đều có điều kiện nuôi dưỡng các con. Xong cháu N là con gái, cháu P là con trai; các cháu đều có quan điểm ở với ai cũng được. Các cháu đều đã biết tự chăm sóc, vệ sinh cá nhân; cháu N là con gái nên cần sự quan tâm, chăm sóc của người mẹ; cháu P là con trai nên cần sự quan tâm, chăm sóc của bố. Đồng thời chính quyền địa phương cũng có quan điểm: đề nghị Tòa căn cứ vào hiện trạng, nguyện vọng của các cháu và quy định của pháp luật để giải quyết cho đảm bảo quyền lợi cũng như sự phát triển của các cháu. Vì vậy, giao chị T là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Trần Thị N – sinh ngày 05/02/2011; giao anh T1 là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Trần Văn P – sinh ngày 25/9/2012 là phù hợp với khoản 2 Điều 81 luật Hôn nhân và gia đình. Chị T không yêu cầu, đề nghị anh T1 cấp dưỡng tiền nuôi con; anh T1 đề nghị Tòa giải quyết theo quy định của pháp luật nên tạm hoãn tiền cấp dưỡng nuôi con đối với chị T và anh T1 cho đến khi có thay đổi khác. Chị T và anh T1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở là phù hợp Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản, công nợ chung: Chị Vũ Thị T và anh Trần Văn P không đề nghị Tòa giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết về tài sản, công nợ chung.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị T phải nộp toàn bộ án phí ly hôn theo quy định pháp luật. Các đương sự đều có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56; khoản 2 Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình:

Căn cứ Điều 227, Điều 228, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sư:

Căn cứ Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Chị Vũ Thị T được ly hôn anh Trần Văn T1.

2. Về con chung: Có 02 con chung. Giao chị Vũ Thị T là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Trần Thị N – sinh ngày 05/02/2011; giao anh Trần Văn T1 là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Trần Văn P – sinh ngày 25/9/2012; tạm hoãn tiền cấp dưỡng nuôi con đối với chị T và anh T1 cho đến khi có thay đổi khác. Chị T và anh T1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

“Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó”.

3. Về án phí: Chị Vũ Thị T phải nộp 300.000đ tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0009826 ngày 07 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt nên có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã nơi thường trú./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ứng Hòa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về