Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGÃ NĂM, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 22 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ngã Năm xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 169/2020/TLST-HNGĐ, ngày 06 tháng 8 năm 2020 về việc“Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 134/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 157/2020/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị B; sinh năm: 1986 (vắng mặt, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp A, xã D, huyện L, tỉnh Tây Ninh.

- Bị đơn: Anh V; sinh năm: 1984 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Khóm H, phường Q, thị xã K, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 18/6/2020, nguyên đơn chị B trình bày:

Vào năm 2006, chị B kết hôn với anh V và được Ủy ban nhân dân xã D, huyện L, tỉnh Tây Ninh cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 28/9/2006. Thời gian đầu sống chung hạnh phúc và có 01 con chung là cháu Q (nữ); sinh ngày 13/8/2006. Đến năm 2008 phát sinh mâu thuẫn, chị Bvà anh V thường xuyên cãi vã dẫn đến cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc và không còn sống chung với nhau từ đầu năm 2008 cho đến nay.

Nay, chị B yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh V.

Về con chung: Chị T đang trực tiếp nuôi dưỡng cháu Q, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung và không yêu cầu anh V cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn: Không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Chứng cứ do chị B giao nộp là Giấy chứng nhận kết hôn; bản chứng thực Giấy chứng minh nhân dân, Sổ hộ khẩu; bản chứng thực Giấy khai sinh của cháu Q, Tờ nguyện vọng đề ngày 18/6/2020 của cháu Q. Đồng thời, chị B có đơn yêu cầu không mở phiên hòa giải và xin xét xử vắng mặt theo quy định.

Đối với bị đơn anh V: Dù được tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý và Thông báo về việc công khai toàn bộ tài liệu chứng cứ trong vụ án, tại Thông báo thể hiện đầy đủ những tình tiết, sự kiện, tài liệu, yêu cầu khởi kiện của chị B nhưng anh V không phản đối, không có văn bản trình bày ý kiến và nguyện vọng của mình. Tòa án đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa ngày 30/12/2020, bị đơn V vẫn vắng mặt không có lý do và không giao nộp tài liệu, chứng cứ gì nên Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa, tiếp tục đưa vụ án ra xét xử theo luật định.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa nêu quan điểm: Qua thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Thư ký phiên tòa cũng như Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, chứng cứ được thu thập đầy đủ đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các đương sự. Nguyên đơn chị B có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Riêng đối với bị đơn anh V trong suốt quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng anh V vẫn vắng mặt không có lý do nên đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn và nguyên đơn theo quy định của pháp luật. Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử cho chị B được ly hôn với anh V, giao cho chị B được nuôi dưỡng con chung theo nguyện vọng của cháu Q, anh V không phải cấp dưỡng cho con; không xem xét, giải quyết về tài sản chung, nợ chung, nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn do không có yêu cầu; chị B phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Chị B khởi kiện, yêu cầu ly hôn với anh V và yêu cầu tiếp tục nuôi con chung. Yêu cầu của chị B được pháp luật điều chỉnh tại các Điều 51, Điều 56 và Điều 58 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 (sau đây gọi là Luật hôn nhân và gia đình). Đồng thời, bị đơn anh V có địa chỉ cư trú tại khóm H, phường Q, thị xã K, tỉnh Sóc Trăng. Do đó, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã K, tỉnh Sóc Trăng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn B có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn V đã được triệu tập hợp lệ hai lần tham gia phiên tòa, đều vắng mặt không có lý do. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về nội dung giải quyết:

Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn; bản chứng thực Giấy chứng minh nhân dân, bản chứng thực Sổ hộ khẩu; bản chứng thực Giấy khai sinh của cháu Q cũng như việc không phản đối của anh V; đối chiếu với quy định tại điểm c khoản 1 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử khẳng định lời trình bày của chị B về việc kết hôn với anh V được Ủy ban nhân dân xã D, huyện L, tỉnh Tây Ninh cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 28/9/2006 và vợ chồng đã có 01 con chung là sự thật. Vì vậy, giữa chị B và anh V đang tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp, quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình.

Tuy nhiên, do vợ chồng bất đồng quan điểm, thường mâu thuẫn cãi vã dẫn đến cuộc sống chung không còn hạnh phúc, chị B và anh V không còn chung sống với nhau từ năm 2008 cho đến nay, người nào chỉ biết bổn phận của người đó, không cùng nhau thực hiện các công việc gia đình, không quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, không cùng nhau nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cháu Q. Như vậy, chị B và anh V đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng quy định tại Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình, vợ chồng không còn yêu thương, tôn trọng lẫn nhau làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, cần áp dụng các Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình, giải quyết cho chị B được ly hôn với anh V.

Đối với quyền nuôi con chung: Cháu Q hiện nay đang sống cùng với chị B, được phát triển đầy đủ về mặt thể chất và tinh thần, hơn nữa cháu Q còn nhỏ cần có sự chăm sóc của mẹ và cháu Q có nguyện vọng được sống chung với chị B. Đồng thời, chị B xin được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, như vậy chị B đã thực hiện đúng nghĩa vụ và quyền của cha mẹ quy định tại Điều 69 của Luật hôn nhân và gia đình. Về phía anh V, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các Thông báo của Tòa án cho anh V, trong thông báo thể hiện rõ yêu cầu của chị B nhưng anh V không phản đối và không có ý kiến gì. Mặc khác, theo nguyện vọng của cháu Q muốn sống chung với chị B nên căn cứ vào Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, giao cho chị B được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Q. Đồng thời, ghi nhận ý chí tự nguyện của chị B về việc không yêu cầu anh V cấp dưỡng cho con.

Tài sản chung, nợ chung, nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn:

Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3] Về án phí sơ thẩm: Chị B phải chịu là 300.000 đồng, theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Khóa XIV, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Toàn bộ quan điểm, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ngã Năm là có căn cứ pháp lý và cơ sở thực tiễn như đã nhận định ở trên, Hội đồng xét xử cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đã nêu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 và khoản 2 Điều 143, khoản 1 Điều 144, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Khóa XIV.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị B được ly hôn với anh V.

2. Về quyền nuôi con chung: Giao cho chị B được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Q (nữ); sinh ngày 13/8/2006 đến đủ 18 (mười tám tuổi).

Ghi nhận ý chí tự nguyện của chị B, về việc không yêu cầu anh V cấp dưỡng cho con.

Trong thời gian chị B nuôi dưỡng con chung, không ai được quyền ngăn cản sự thăm nom, chăm sóc, giáo dục của cha mẹ đối với con chung.

Vì quyền lợi về mọi mặt của cháu Q, chị B có thể yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi nghĩa vụ và mức cấp dưỡng cho con; anh V có thể yêu cầu giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Các đương sự thực hiện quyền này theo quy định pháp luật.

3. Về tài sản chung, nợ chung, nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4. Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị B phải chịu là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0003579 ngày 06/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Ngã Năm, chị B đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Chị B và anh V có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết hợp lệ, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ngã Năm - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về