Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 20/01/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ N, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 20 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thị xã N, tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 630/2020/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 125/2020/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2020, quyết định hoãn phiên tòa số 101/2020/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 12 năm 2020, thông báo dời ngày xét xử số: 108/TB-TA ngày 24/12/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Trương Tấn T, sinh năm 1997 Nơi cư trú: Thôn B, xã N, Thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Bích H, sinh năm 1992 Nơi cư trú: Thôn B, xã N, Thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ly hôn ngày 28/09/2020, bản tự khai ngày 14/10/2020, các biên bản hòa giải và tại phiên tòa nguyên đơn ông Trương Tấn T trình bày:

Ông và bà Nguyễn Thị Bích H kết hôn năm 2017 trên cơ sở tự nguyện, có đăng kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, Thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Trong quá trình chung sống, ông bà không có hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, không hợp tính tình. Bà H không có trách nhiệm với gia đình, một mình ông phải lo toan, chăm sóc gia đình. Ông bà đã nhiều lần hòa giải để giải quyết mâu thuẫn hàn gắn tình cảm gia đình nhưng không được. Ông và bà H đã sống ly thân từ tháng 8 năm 2020 đến nay. Nay nhận thấy tình cảm không còn và để ổn định cuộc sống nên ông yêu cầu Tòa án xem xét và giải quyết cho ông được ly hôn với bà Nguyễn Thị Bích H.

Về con chung: Ông và bà H có 02 con chung là Nh, sinh ngày 19/9/2017 và Y, sinh ngày 29/7/2019. Ông đồng ý giao 02 con chung cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng và ông cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.500.000đồng/cháu. Tổng cộng, ông cấp dưỡng nuôi 2 con chung mỗi tháng 3.000.000đồng.

Về T sản chung, nợ chung: Ông Trương Tấn T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai ngày 20/10/2020, biên bản hòa giải ngày 30/10/2020 bị đơn bà Nguyễn Thị Bích H trình bày:

Bà và ông T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn như lời trình bày của ông T. Quá trình chung sống giữa bà và ông T có xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm và do vấn đề kinh tế gia đình dẫn đến kình cãi nhau. Tuy nhiên, bà H cho rằng mâu thuẫn không đáng kể để ly hôn, bà vẫn còn tình cảm với ông T và các con còn nhỏ, cần một người cha nên bà không đồng ý ly hôn và mong muốn đoàn tụ gia đình.

Về con chung: Bà và ông T có 02 con chung là Nh, sinh ngày 19/9/2017 và Y, sinh ngày 29/7/2019. Trường hợp Tòa án giải quyết ly hôn thì bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung và yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000đồng (mỗi cháu mỗi tháng 1.500.000 đồng).

Về T sản chung, nợ chung: Bà Nguyễn Thị Bích H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Tòa án nhân dân Thị xã N thụ lý giải quyết vụ kiện là đúng thẩm quyền, có căn cứ, đúng pháp luật. Việc tống đạt các văn bản tố tụng cho đương sự đúng quy định. Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật. Các T liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử thẩm tra, xem xét công khai tại phiên tòa. Về nội dung vụ án, xét mâu thuẫn giữa nguyên đơn và bị đơn là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn. Về con chung đề nghị Hội đồng xét xử giao 02 con chung là Nh, sinh ngày 19/9/2017 và Y, sinh ngày 29/7/2019 cho bà H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến tuổi trưởng thành. Ông T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi 2 con chung mỗi tháng 1.500.000đồng/cháu. Tổng cộng, ông T cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 3.000.000đồng, thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 02/2021 cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi. Về T sản chung, nợ chung ông T và bà H không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết; quyết định về án phí, quyền kháng cáo theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các T liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn bà Nguyễn Thị Bích H đã được Tòa án thông báo hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tòa ngày 16/12/2020 bà H đã không có mặt, Tòa án đã hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa ngày 20/01/2021 bà H tiếp tục vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Do vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn ông Trương Tấn T khởi kiện bị đơn bà Nguyễn Thị Bích H có địa chỉ tại Thôn B, xã N, Thị xã N, tỉnh Khánh Hòa về việc “Ly hôn” là thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân Thị xã N theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng Dân sự 2015.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Ông Trương Tấn T và bà Nguyễn Thị Bích H kết hôn trên cơ sở tự nguyện được Ủy ban nhân dân xã N, Thị xã N, tỉnh Khánh Hòa cấp giấy chứng nhận kết hôn số 52/2017 cấp ngày 01/8/2017. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Theo lời trình bày của ông T thì quá trình chung sống vợ chồng ông T và bà H không hạnh phúc, phát sinh nhiều mâu thuẫn do không cùng quan điểm sống làm ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình. Tại phiên tòa ông T vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với bà H vì không còn tình nghĩa vợ chồng, ông T và bà H đã sống ly thân từ tháng 8/2020 cho đến nay, không ai còn quan tâm, chăm sóc đến ai. Bà H cũng thừa nhận quá trình chung sống giữa bà và ông T có phát sinh mâu thuẫn, kình cãi nhau nhưng chưa đến mức phải ly hôn, bà H còn tình cảm với ông T nên bà H không đồng ý ly hôn. Tuy nhiên, bà H không đưa ra được biện pháp để hàn gắn tình cảm vợ chồng, hàn gắn gia đình. Đồng thời, quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để hòa giải đoàn tụ nhưng đến thời điểm này bà H vẫn vắng mặt cho thấy bà H không còn quan tâm đến quan hệ hôn nhân giữa bà và ông T. Xét thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng ông T và bà H là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu cứ tiếp tục duy trì cuộc sống gia đình thì cũng không đem lại hạnh phúc cho đôi bên nên yêu cầu khởi kiện của ông T là có căn cứ, phù hợp theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trương Tấn T.

[4] Về con chung: Ông Trương Tấn T và bà Nguyễn Thị Bích H có 02 con chung là Nh, sinh ngày 19/9/2017 và Y, sinh ngày 29/7/2019. Bà Nguyễn Thị Bích H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng hai con. Hội đồng xét xử xét thấy: Từ trước đến nay cháu Nhân và cháu Ý sống chung với ông T, bà H và được ông T, bà H trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục nhưng sau khi vợ chồng mâu thuẫn thì bà H là người trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cháu Nhân và cháu Ý và các cháu đang còn nhỏ rất cần sự quan tâm, chăm sóc của người mẹ, đồng thời tại phiên tòa ông T cũng đồng ý giao cháu Nhân và cháu Ý cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng. Do đó, tiếp tục giao cháu Nhân và cháu Ý cho bà H trực tiếp nuôi là phù hợp với điều kiện thực tế cuộc sống hiện nay của các bên, của con chung và phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà H về việc được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung là Nh, sinh ngày 19/9/2017 và Y, sinh ngày 29/7/2019.

Về việc cấp dưỡng nuôi con: Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai ngày 20/10/2020, biên bản hòa giải ngày 30/10/2020 bà Nguyễn Thị Bích H yêu cầu ông Trương Tấn T cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 3.000.000 đồng (mỗi cháu mỗi tháng 1.500.000 đồng). Hội đồng xét xử xét thấy: Tại phiên tòa ông T trình bày mỗi tháng ông thu nhập 9.000.000 đồng và đồng ý yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung của bà H nên Hội đồng xét xử nhận thấy buộc ông T cấp dưỡng nuôi 2 con chung là Nh, sinh ngày 19/9/2017 và Y, sinh ngày 29/7/2019, mỗi tháng 1.500.000đồng/cháu. Tổng cộng mỗi tháng ông T phải cấp dưỡng nuôi 2 con chung là 3.000.000đồng (Ba triệu đồng) là phù hợp với thực tế khả năng kinh tế của ông T, thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 02/2021 cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi.

[5] Về T sản chung, nợ chung: Ông Trương Tấn T và bà Nguyễn Thị Bích H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí: Ông Trương Tấn T phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm và 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm cấp về dưỡng nuôi con.

[7] Xét về quan điểm giải quyết vụ án của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thị xã N là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 28, khoản 4 Điều 147; Điều 227, Điều 271, và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trương Tấn T.

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Trương Tấn T được ly hôn với bà Nguyễn Thị Bích H.

- Về con chung: Giao cho bà Nguyễn Thị Bích H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục 02 con chung là Nh, sinh ngày 19/9/2017 và Y, sinh ngày 29/7/2019 đến tuổi trưởng thành. Ông Trương Tấn T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi 2 con chung là Nh và Y mỗi tháng 1.500.000đồng/cháu.Tổng cộng mỗi tháng ông T phải cấp dưỡng nuôi 2 con chung là 3.000.000đồng (Ba triệu đồng), thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 02/2021 cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, ông Trương Tấn T, bà Nguyễn Thị Bích H có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như việc cấp dưỡng nuôi con.

- Về T sản chung, nợ chung: Ông Trương Tấn T và bà Nguyễn Thị Bích H không yêu cầu nên không xét.

Quy định : Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án chậm trả tiền thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

2. Về án phí: Ông Trương Tấn T phải nộp 300.000đ tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm cấp dưỡng nuôi con. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2018/0009916 ngày 06/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự Thị xã N. Ông T phải nộp thêm 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 20/01/2021 về ly hôn

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về