Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/01/2021 VỀ LY HÔN 

Trong ngày 19 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chơn Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 376/2020/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 11 năm 2020 về Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 147/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Liêu Thị D, sinh năm 1986 Bị đơn: Anh Phạm Ngọc Đông H, sinh năm 1975 Cùng địa chỉ: Tổ 2, ấp 5, xã N, huyện C, tỉnh Bình Phước

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện nộp ngày 16 tháng 11 năm 2020. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Liêu Thị D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Liêu Thị D và anh Phạm Ngọc Đông H chung sống vào năm 2010 có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện C, tỉnh Bình Phước theo đúng quy định pháp luật. Trước khi chung sống cả hai đều còn độc thân.Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc.

Quá trình chung sống thì thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, hòa thuận, anh H rất yêu thương vợ con. Nhưng từ năm 2015 thì anh H có quan hệ với người phụ nữ khác. Chị D phát hiện và nhiều lần nhắc nhở yêu cầu anh H chấm dứt quan hệ nhưng anh H không thay đổi. Hiện nay chị D có clip quay lại việc anh H và người phụ nữ này quan hệ với nhau. Việc này cứ ám ảnh tinh thần chị D không thể quên được nên chị D. Cha mẹ anh H nhiều lần nhắc nhở anh H và hòa giải để vợ chồng đoàn tụ chung sống lại nhưng đến nay tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được, chung sống không có hạnh phúc. Chị D và anh H đã ly thân khoảng 04 tháng nay. Nay chị D thấy không còn tình cảm với anh H nữa, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên chị D yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H Về nuôi con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung tên Phạm Ngọc Đông Q, sinh ngày 05/05/2011. Nay ly hôn chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết về nuôi con chung Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết Quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Phạm Ngọc Đông H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh H thống nhất với lời trình bày của chị D về điều kiện chung sống, điều kiện kết hôn và vợ chồng có mâu thuẫn với nhau là do khoảng thời gian gần đây anh H có quan hệ tình cảm với chị N. Tháng 8/2020 chị D phát hiện và cha mẹ anh H có nhắc nhở nên anh H và chị N đã chấm dứt không con mối quan hệ nào nữa nhưng chị D không còn lòng tin với anh H. Chị D hay có lời lẽ trách móc xúc phạm anh H nên anh dọn ra ở riêng khoảng 3 tháng nay. Vợ chồng chỉ còn quan hệ trên công việc tại công ty còn về chuyện vợ chồng thì ai có động thái gì để hàn gắng. Nay chị D yêu cầu ly hôn thì anh H không đồng ý, anh H xác định còn thương vợ thương con, anh H rất mong được đoàn tụ cho anh H có cơ hội sữa chữa sai lầm của mình, anh H sẽ chăm lo cho vợ con và gia đình.

Về nuôi con chung: Thống nhất vợ chồng có 01 con chung tên Phạm Ngọc Đông Q, sinh ngày 05/05/2011. Nếu phải ly hôn anh H không yêu cầu được về con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Thống nhất không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết

Tại phiên tòa: Nguyên đơn chị Liêu Thị D giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bị đơn anh Phạm Ngọc Đông H vắng mặt không có lý do.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành phát biểu ý kiến Việc chấp hành theo quy định pháp luật của Thẩm phán: Quá trình giải quyết vụ án, từ khi thụ lý cho đến nay nhận thấy Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 BLTTDS năm 2015;

Về việc chấp hành theo quy đinh pháp luật của HĐXX: Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định tại Điều 63 BLTTDS 2015;

Về việc chấp hành theo quy định của pháp luật của các đương sự: Trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật tại các 70, 71 và Điều 234 của BLTTDS. Bị đơn không chấp hành hành đúng các quy định của pháp luật tại các 72 của BLTTDS Về quan điểm giải quyết vụ án: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành tham gia phiên tòa đề nghị HĐXX:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Liêu Thị D và anh Phạm Ngọc Đông H đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện C, tỉnh Bình Phước vào năm 2010, nên hôn nhân của chị D và anh H là hợp pháp.

Về mâu thuẫn hôn nhân: Chị D cho rằng vợ chồng anh chị có nhiều mâu thuẫn do anh H không chung thủy nên yêu cầu ly hôn, anh H không đồng ý ly hôn. Tuy nhiên anh H thừa nhận anh có quan hệ với người phụ nữ khác bị chị D phát hiện, anh đã chấm dứt quan hệ này nhưng chị D không còn lòng tin với anh H và vợ chồng đã sống ly thân từ tháng từ tháng 8/2020 cho đến nay. Như vậy hôn nhân chị D, anh H đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt do đó cần căn cứ vào khoản 1 điều 56 luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu của chị D, cho chị D được ly hôn với anh H Về con chung, tài sản chung, nợ chung: Do các đương sự không yêu cầu nên không đề xuất Tòa án xem xét Đề nghị HĐXX xem xét nghĩa vụ nộp án phí của các đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ tranh chấp: Theo đơn khởi kiện và yêu cầu tại phiên tòa của nguyên đơn chị Liêu Thị D, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án hôn nhân gia đình về việc “Ly hôn” theo quy định tại Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Do bị đơn anh Phạm Ngọc Đông H hiện có nơi cư trú tại tổ 2, ấp 5, xã N, huyện C, tỉnh Bình Phước. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước.

[3] Về thủ tục tố tung: Tại phiên bị đơn anh Phạm Ngọc Đông H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử số 147/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2021/QĐST-HPT ngày 06/01/2021 nhưng anh H vắng mặt không có lý do . Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Liêu Thị D, Hội đồng xét xử xét thấy:

[4] Chị Liêu Thị D và anh Phạm Ngọc Đông H tự nguyện sống chung với nhau có đăng ký kết hôn vào năm 2010 tại Ủy ban nhân dân xã Nha Bích, huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước theo đúng quy định pháp luật nên hôn nhân giữa anh chị là hợp pháp.

[5] Trong quá trình giải quyết vụ án chị D cho rằng vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn nguyên nhân từ năm 2015 thì anh H có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác. Chị D phát hiện và nhiều lần nhắc nhở yêu cầu anh H chấm dứt quan hệ nhưng anh H không thay đổi. Hiện nay chị D có clip quay lại việc anh H và người phụ nữ này quan hệ với nhau. Việc này cứ ám ảnh tinh thần chị D không thể quên được nên chị D. Cha mẹ anh H nhiều lần nhắc nhở anh H và hòa giải để vợ chồng đoàn tụ chung sống lại nhưng đến nay tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được, chung sống không có hạnh phúc. Chị D và anh H đã ly thân khoảng 04 tháng nay. Bị đơn anh H không đồng ý ly hôn, anh H thừa nhận anh có quan hệ tình cảm với người khác là sự thật, tuy nhiên cha mẹ anh H có nhắc nhở nên anh đã chấm dứt nhưng chị D không còn lòng tin với anh H. Chị D hay có lời lẽ trách móc xúc phạm anh H nên anh dọn ra ở riêng. Lời trình bày của chị D, anh H cũng phù hợp với chứng cứ là biên bản xác minh ngày 11/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Chơn Thành đối với bà Hà Thị Đ (là mẹ ruột của anh H). Xét thấy, việc anh H có quan hệ tình cảm với người khác đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng được quy định tại điều 19 luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Chị D anh H đã có thời gian sống ly thân, trong thời gian sống ly thân anh chị không còn quan tâm nhau nữa và cũng không còn yêu thương, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận đơn yêu cầu ly hôn của chị D, cho chị D được ly hôn với anh H.

[6] Về nuôi con chung, tài sản chung, nợ chung: do các đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết [7] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn chị Liêu Thị D phải chịu là 300.000 đồng.

Vì các lẽ nêu trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 143, Điều 144, Điều 147, Điều 244, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận cho chị Liêu Thị D được ly hôn với anh Phạm Ngọc Đông H.

2. Về con chung, tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết

3. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Liêu Thị D phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) và được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0002579 ngày 20/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước.

4. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

254
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về ly hôn

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chơn Thành - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về