Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN LÃNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 224/2020/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 10 năm 2020 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 12 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2021/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lương Thị H, sinh năm 19xx; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn V, xã Q, huyện T, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: Thôn Tr, xã Đ, huyện T, thành phố Hải Phòng, có mặt;

- Bị đơn: Anh Đoàn Văn D, sinh năm 19xx, đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn V, xã Q, huyện T, thành phố Hải Phòng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn (chị Lương Thị H) trình bày: Chị và anh Đoàn Văn D tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2012 nhưng đến ngày 25/4/2013 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tiên Tiến (nay là Ủy ban nhân dân xã Q), huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng. Anh chị chung sống với nhau hòa thuận được 04 năm đầu thì mâu thuẫn phát sinh do bất đồng quan điểm sống, vợ cH thường xuyên cãi nhau nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Mâu thuẫn vợ cH anh chị đã được hai bên gia đình hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Cuối năm 2016, do mâu thuẫn căng thẳng chị H đã về nhà bố mẹ đẻ ở thôn Tr, xã Đ, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng sống. Từ đó đến nay anh chị sống ly thân và không còn quan tâm đến nhau. Nhận thấy tình cảm vợ cH không còn, không thể đoàn tụ, chị H yêu cầu được ly hôn anh D. Anh chị có một con chung là Đoàn Nhật Hải, sinh ngày 01/6/2013. Từ khi anh chị sống ly thân đến nay cháu Hải do anh D trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc tốt. Để ổn định tâm lý, sinh hoạt cho cháu Hải, khi ly hôn, chị H đề nghị Tòa án giao con cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng; việc cấp dưỡng cho con chị xin tự giải quyết với anh D, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh chị không có tài sản và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, bà Vũ Thị M là mẹ đẻ anh D xác nhận thời gian kết hôn, thời điểm sống ly thân như lời khai của nguyên đơn. Về nguyên nhân mâu thuẫn vợ cH chị H, anh D là do chị H có quan hệ bất chính với người đàn ông khác dẫn tới vợ cH xô sát, cãi nhau; anh chị không có tài sản, nợ chung. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã triệu tập anh D nhiều lần, yêu cầu anh D giao nộp bản tự khai và các tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc giải quyết vụ án nhưng anh D không thực hiện là do anh D không đồng ý ly hôn. Trường hợp nếu phải ly hôn anh D nhận trực tiếp nuôi cháu Hải, việc cấp dưỡng cho con anh tự giải quyết với chị H. Anh D làm nghề lái xe, thu nhập ổn định và đảm bảo thời gian chăm sóc con.

Tài liệu xác minh tại địa phương thể hiện: Mâu thuẫn vợ cH giữa chị H và anh D là do bất đồng quan điểm sống, vợ cH không hòa hợp, anh D luôn mắng, chửi chị H dẫn tới chị H nhiều lần về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Lần cuối chị H bỏ về nhà bố mẹ đẻ là vào cuối năm 2016. Từ đó đến nay chị H không về chung sống với anh D. Anh chị có một con chung như chị H khai. Nay chị H xin ly hôn và đề nghị Tòa án giao cháu Hải cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng, Tòa án nên chấp nhận yêu cầu của chị H là phù hợp với thực tế và nguyện vọng của cháu Hải.

Tại phiên tòa: Nguyên đơn (chị H) vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; bị đơn (anh D) vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Thẩm phán đã thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, thông báo về phiên họp, hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử đúng quy định về thẩm quyền, thời hạn, trình tự, thủ tục tố tụng; phiên toà được mở đúng thời hạn, Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại các điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn không có mặt tại phiên họp, hòa giải và tại phiên tòa là chưa thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ của bị đơn quy định tại các điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về đường lối giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các điều 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 271 và khoản 1 Điều 273, khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H, xử cho chị Lương Thị H được ly hôn anh Đoàn Văn D; giao con Đoàn Nhật Hải cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng; việc cấp dưỡng cho con, chị H xin tự thỏa thuận với anh anh D, anh chị không có tài sản và nợ chung, không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra để giải quyết; chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

[1]. Đây là tranh chấp hôn nhân gia đình (ly hôn, tranh chấp nuôi con); bị đơn (anh Đoàn Văn D) có đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở tại thôn V, xã Q, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tiên Lãng, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Bị đơn (anh D) vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt anh D.

- Về nội dung:

[3]. Về quan hệ hôn nhân: Lời khai của nguyên đơn phù hợp với tài liệu xác minh tại địa phương, thể hiện: Quan hệ hôn nhân giữa chị H, anh D được xác lập do hai bên tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tiên Tiến (nay là Ủy ban nhân dân xã Q) vào ngày 25/4/2013, là hôn nhân hợp pháp. Mâu thuẫn phát sinh do tính tình không hợp, vợ cH bất đồng quan điểm sống thường xuyên xảy ra cãi nhau và nhiều lần đã sống ly thân. Hai bên gia đình đã hòa giải nhưng không có kết quả. Cuối năm 2016, do mâu thuẫn căng thẳng, chị H đã về nhà bố mẹ đẻ ở thôn Tr, xã Đ, huyện Tiên Lãng sinh sống. Từ đó đến nay anh chị sống ly thân và không còn quan tâm đến nhau. Xét thấy, mâu thuẫn vợ cH chị H, anh D đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được; yêu cầu ly hôn của chị H là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên cần được chấp nhận, xử cho chị H được ly hôn anh D.

[4]. Về con chung: Anh chị có một con chung là Đoàn Nhật Hải, sinh ngày 01/6/2013. Khi ly hôn chị H đề nghị Tòa án tiếp tục giao cháu Hải cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, chị H không tranh chấp với anh D về người trực tiếp nuôi con khi ly hôn; từ khi anh chị sống ly thân đến nay cháu Hải do anh D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc tốt; quá trình giải quyết vụ án cháu Hải có nguyện vọng được ở cùng với bố; anh D làm nghề lái xe, có thu nhập ổn định, có đủ thời gian chăm sóc con. Do vậy, để đảm bảo tâm lý, sinh hoạt và quyền lợi về mọi mặt của con, căn cứ khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H, xử giao con Đoàn Nhật Hải cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng. Về việc cấp dưỡng cho con, vì chị H xin tự thỏa thuận với anh D, không yêu cầu Tòa án giải quyết, tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, xét thấy quyền lợi của con vẫn được đảm bảo nên để anh chị tự giải quyết với nhau là phù hợp.

[5]. Về tài sản và nợ chung: Anh chị không có tài sản và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

[6]. Về án phí: Chị Lương Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 91, khoản 1 Điều 96, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lương Thị H, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lương Thị H được ly hôn anh Đoàn Văn D.

2. Về con chung: Giao con Đoàn Nhật H, sinh ngày 01/6/20xx cho anh Đoàn Văn D trực tiếp nuôi dưỡng. Thời hạn nuôi con tính từ ngày 15 tháng 01 năm 2021 đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng cho con, anh chị xin tự giải quyết với nhau.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3.Về án phí: Chị Lương Thị H phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chị H đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí theo Biên lai thu số 0011942 ngày 22 tháng 10 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Lãng. Như vậy, chị H đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Lãng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về