Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 14/01/2021 về ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ LY HÔN 

Ngày 14 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 692/2020/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2020 về việc “Ly hôn” , theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1 . Nguyên đơn : Chị Tôn Thị Mỹ D, sinh năm 1996. Trú tại: Số 162, tổ 4, ấp 4, xã L, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

2 . Bị đơn : Anh Nguyễn Minh N, sinh năm 1997. Trú tại: Số 5/25, đường 58, ấp T, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

(Chị D và anh N xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện; bản tự khai; biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, nguyên đơn- chị Tôn Thị Mỹ D trình bày:

Chị Tôn Thị Mỹ D và anh Nguyễn Minh N tự nguyện đăng ký kết hôn, đã được UBND xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 21/8/2018. Quá trình sống chung với nhau nhưng thường xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau; anh N không thương yêu, chăm sóc cho vợ con. Vì vậy, từ tháng 12/2019 đến nay, chị D và anh N không còn sống chung với nhau, không ai quan tâm đến ai, tình cảm đối với nhau không còn. Nay mâu thuẫn của chị D và anh N đã trầm trọng nên chị D cương quyết yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Minh N.

Về con chung: Chị D và anh N có 01 con chung là cháu Nguyễn Ngọc Bảo M, sinh ngày 01/11/2019 (hiện đang sống cùng chị D). Khi ly hôn, chị D có nguyện vọng được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cháu M và tạm thời không yêu cầu anh N đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có.

Chị D đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

- Tại biên bản lấy lời khai ngày 10/11/2020, bị đơn- anh Nguyễn Minh N trình bày:

Chị Tôn Thị Mỹ D và anh Nguyễn Minh N tự nguyện đăng ký kết hôn, đã được UBND xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 21/8/2018. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian đầu sau khi kết hôn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không còn quan tâm, thương yêu nhau, tình cảm đối với nhau không còn. Từ cuối năm 2019 đến nay, anh N và chị D không còn sống chung với nhau, không ai quan tâm đến ai, tình cảm của anh N đối với chị D cũng không còn nữa. Tuy nhiên, do anh N là người theo đạo Thiên chúa nên không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh N và chị D có 01 con chung là cháu Nguyễn Ngọc Bảo M, sinh ngày 01/11/2019 (hiện đang sống cùng chị D). Khi ly hôn, anh N đồng ý để chị D tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Tạm thời anh N không đóng góp cho chị D tiền cấp dưỡng nuôi con chung do chị D không yêu cầu.

Về tài sản chung: Anh N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có.

Do bận công việc nên anh N đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt anh N trong suốt quá trình giải quyết vụ án, kể cả tại phiên tòa.

- Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom:

+ Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng là đúng quy định của pháp luật.

+ Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị D được ly hôn với anh N;

giao cháu Nguyễn Ngọc Bảo M, sinh ngày 01/11/2019 cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng; tạm thời anh N không phải đóng góp cho chị D tiền cấp dưỡng nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt chị D, anh N.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ giữa chị D và anh N là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, do mâu thuẫn trầm trọng nên vợ chồng đã không chung sống cùng nhau từ tháng 12/2019 đến nay, không ai quan tâm đến ai. Chị D và anh N đều thừa nhận vợ chồng không còn thương yêu nhau, tình cảm đối với nhau không còn. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị D và anh N đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Đây là căn cứ cho ly hôn theo quy định tại khoản 1 điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Như vậy, yêu cầu xin ly hôn của chị D được chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Chị D và anh N có có 01 con chung là cháu Nguyễn Ngọc Bảo M, sinh ngày 01/11/2019 (hiện đang sống cùng chị D). Xét thấy yêu cầu trực tiếp nuôi con chung của chị D thì thấy phù hợp với ý kiến của anh N, phù hợp với nơi ở thực tế hiện nay của cháu M và phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình nên cần ghi nhận. Chị D không yêu cầu anh N đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Tôn Thị Mỹ D được ly hôn với anh Nguyễn Minh N.

2. Về con chung:

- Giao cho chị Tôn Thị Mỹ D trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Ngọc Bảo M, sinh ngày 01/11/2019.

- Tạm thời anh Nguyễn Minh N không phải đóng góp cho chị Tôn Thị Mỹ D tiền cấp dưỡng nuôi con chung.

- Không ai được cản trở quyền thăm nom con chung của anh Nguyễn Minh N.

- Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng

3. Về án phí: Chị Tôn Thị Mỹ D phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), theo biên lai thu số 0005720 ngày 25/9/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom. Chị Tôn Thị Mỹ D đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Báo cho chị Tôn Thị Mỹ D, anh Nguyễn Minh N biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án này theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 14/01/2021 về ly hôn 

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về