Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 12/01/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 12/01/2021 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 12 tháng 01 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 555/2020/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 11 năm 2020 về việc: “Ly hôn và tranh chấp nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2020/QĐXX - ST ngày 10 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Trần Thị Thúy H, sinh năm 1987 (Có mặt);

Nơi cư trú: Ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre.

Bị đơn Ông Lê Thành T, sinh năm 1980 (Vắng mặt);

Nơi cư trú: Ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 15/10/2020, bản tự khai và tại phiên tòa bà Trần Thị Thúy H trình bày:

Bà H và ông T đám cưới trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Phú An Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre vào năm 2002. Quá trình chung sống hạnh phúc thời gian đầu đến đầu năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân do mâu thuẫn bất đồng về quan điểm, tính cách, ông T thường xuyên nhậu nhẹt, thường hay cãi nhau. Hiện tại, hai vợ chồng còn sống chung nhưng do không còn tình cảm nên nay bà Trần Thị Thúy H yêu cầu ly hôn với ông Lê Thành T. Bà H không yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ chồng sau ly hôn.

Con chung: Bà H và ông T có 02 con chung là cháu Lê Thị Kim N, sinh ngày 10/7/2003, do cháu có nguyện vọng được sống chung với cha nên bà H đồng ý để ông T nuôi cháu Kim N; cháu Lê Minh P, sinh ngày 08/11/2009, bà H yêu cầu được nuôi cháu P, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Ông Lê Thành T vắng mặt, mặc dù được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt tại các phiên hòa giải, công khai chứng cứ và vắng mặt tại phiên tòa đến lần thứ hai không có lý do chính đáng nên không có lời trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký tuân thủ đúng quy định pháp luật tố tụng. Các bên đương sự tham gia tố tụng tuân thủ đúng quy định của pháp luật; riêng ông Lê Thành T vắng mặt trong toàn bộ quá trình tố tụng của Tòa án.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Do mâu thuẫn trong cuộc sống vợ chồng của bà Trần Thị Thúy H và ông Lê Thành T đã đến mức trầm trọng, không còn ai quan tâm đến cuộc sống của nhau, đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Đề nghị Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Trần Thị Thúy H đối với ông Lê Thành T. Về con chung: Ông Lê Thành T được nuôi cháu Lê Thị Kim N, sinh ngày 10/7/2003, bà H được nuôi cháu Lê Minh P, sinh ngày 08/11/2009, ghi nhận bà H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Buộc bà Trần Thị Thúy H cấp dưỡng cho ông T nuôi cháu N số tiền 745.000 đồng/tháng cho đến khi cháu N trong 18 tuổi. Về tài sản chung, nợ chung: Bà Trần Thị Thúy H khai không có nên không xét đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình về việc ly hôn và tranh chấp về nuôi con chung nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Bị đơn ông Lê Thành T đang cư trú tại ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Lê Thành T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do chính đáng. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là phù hợp với quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Thúy H và ông Lê Thành T kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phú An Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ngày 03/3/2005 là phù hợp với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được thời gian đầu. Đến năm 2018, thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do mâu thuẫn bất đồng về quan điểm, tính cách, thường hay cãi nhau. Ông Lê Thành T đã được Tòa án triệu tập nhiều lần để hòa giải đoàn tụ nhưng vắng mặt không có lý do, cho thấy ông T đã bỏ mặt mối quan hệ hôn nhân này. Cả hai cũng không có biện pháp gì để hàn gắng tình cảm. Tại biên bản xác minh ngày 24/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre với ông Trần Văn Phi H1 (là cha ruột của bà Trần Thị Thúy H) xác nhận cuộc sống vợ chồng của bà H và ông T không hạnh phúc, hai vợ chồng thường xuyên cải nhau, ông T nhậu nhẹt, chửi và đuổi bà H đi nhiều lần. Từ những điều trên cho thấy cả hai không ai còn quan tâm và chăm sóc cho nhau, mâu thuẫn trong cuộc sống vợ chồng của bà H và ông T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ vợ chồng. Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Trần Thị Thúy H đối với ông Lê Thành T là phù hợp quy định pháp luật. Bà Trần Thị Thúy H không yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn, đây là sự tự nguyện của bà H nên ghi nhận.

[4] Về con chung: Bà Trần Thị Thúy H và ông Lê Thành T có 02 con chung là cháu Lê Thị Kim N, sinh ngày 10/7/2003 và cháu Lê Minh P, sinh ngày 08/11/2009. Xét việc giao con cho ai nuôi cần xem xét mọi mặt về điều kiện vật chất và tinh thần, sự phát triển bình thường của đứa trẻ. Bà H, ông T đều có công việc ổn định, đảm bảo điều kiện để chăm sóc giáo dục con chung. Tại biên bản hỏi ý kiến con từ 07 tuổi trở lên, cháu N có nguyện vọng được sống với cha, cháu P có nguyện vọng được sống với mẹ. Bà Trần Thị Thúy H cũng đồng ý để ông T nuôi cháu Kim N. Để đảm bảo việc phát triểu ổn định về vật chất và tinh thần cho con chung nên giao cháu P cho bà H tiếp tục nuôi dưỡng; giao cháu N cho ông T tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp. Bà H tự nguyện không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung nên ghi nhận. Đối với đề nghị của Viện kiểm sát về việc buộc bà Trần Thị Thúy H cấp dưỡng cho ông T nuôi cháu N mỗi tháng 745.000 đồng cho đến khi cháu N tròn 18 tuổi; Hội đồng xét xử xét thấy: Ông Lê Thành T cố tình vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng tại Tòa án mà không có lý do chính đáng, Tòa án không có được lời trình bày cũng như yêu cầu của ông T về việc cấp dưỡng nuôi con, do đó không đủ cơ sở buộc bà H cấp dưỡng nuôi con chung. Trường hợp có yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con chung, ông Lê Thành T được quyền khởi kiện tại Tòa án bằng vụ kiện khác theo quy định của pháp luật.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Bà Trần Thị Thúy H khai không có nên không xét đến.

[6] Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Trần Thị Thúy H phải chịu là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Điều 56; 81; 82; 83; 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227; khoản 1 Điều 273; Điều 278 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Trần Thị Thúy H đối với ông Lê Thành T. Bà Trần Thị Thúy H được ly hôn với ông Lê Thành T. Quan hệ hôn nhân giữa bà Trần Thị Thúy H với ông Lê Thành T chấm dứt kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật. Ghi nhận bà Trần Thị Thúy H không yêu cầu cấp dưỡng cho vợ chồng sau khi ly hôn.

2. Về con chung: Ông Lê Thành T được nuôi cháu Lê Thị Kim N, sinh ngày 10/7/2003, bà Trần Thị Thúy H được nuôi cháu Lê Minh P, sinh ngày 08/11/2009.

Ghi nhận bà Trần Thị Thúy H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà Trần Thị Thúy H, ông Lê Thành T được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.Vì lợi ích của con chung sau này, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà Trần Thị Thúy H khai không có nên không xét đến.

4. Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Trần Thị Thúy H phải chịu là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0001561 ngày 29 tháng 10 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Bà Trần Thị Thúy H đã nộp xong án phí.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 12/01/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về