Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 11/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 11/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 11 tháng 01 năm 2021, tại Tòa án nhân dân huyện Phú Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 326/2020/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 11 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 438/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Lê S, sinh năm 1972 (xin vắng mặt).

Bị đơn: Bà Trần N, sinh năm 1972 (xin vắng mặt).

Cùng địa chỉ cư trú: Ấp G, xã P, huyện T, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 27/10/2020, các văn bản kèm theo ông Lê S trình bày:

Về hôn nhân: Năm 1999, ông và bà Trần N thành hôn và chung sống với nhau như vợ chồng có đăng ký kết hôn. Trong thời gian chung sống thì ông S và bà N thường xuyên cãi vả, phát sinh nhiều mâu thuẫn trong lối sống, bất đồng quan điểm, thường xuyên tranh cải, xúc phạm lẫn nhau ngày càng trầm trọng, có hòa giải nhiều lần nhưng không hàn gắn được, ông và bà N đã sống ly thân từ năm 2013 cho đến nay. Ông S xác định là ông không còn tình cảm dành cho bà N. Do mâu thuẫn đã trầm trọng, cuộc sống chung không còn hạnh phúc, nên ông S không thể đoàn tụ gia đình với bà N, nay ông cương quyết ly hôn với bà N và yêu cầu Tòa án xét xử cho ông ly hôn bà Trần N.

Về con chung: Có hai người con chung tên Lê N, sinh ngày 24/8/2000 và Lê T, sinh ngày 02/10/2006, hiện tại Lê T đang do ông nuôi dưỡng. Ông yêu cầu được nuôi dưỡng Lê T và không yêu cầu bà N cấp dưỡng nuôi con. Riêng Lê N đã trưởng thành và tự lao động nuôi sống bản thân nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do công việc làm ăn xa nên việc đi lại khó khăn, ông Lê S xin vắng mặt tham gia tố tụng và không có ý kiến gì khác.

Tại đơn xác nhận vắng mặt ngày 26/10/2020 bà Trần N trình bày:

Do cuộc sống làm ăn xa không về được để giải quyết việc ly hôn nên bà Trần N xin vắng mặt tham gia phiên tòa sơ thẩm và không có ý kiến gì khác.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát:

Thẩm phán xác định đúng quan hệ pháp luật, thẩm quyền giải quyết, tư cách tham gia tố tụng của các đương sự trong vụ án. Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Về nội dung, cụ thể về hôn nhân đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điều 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận cho ông Lê S ly hôn với bà Trần N; Về con chung: Có hai người con chung tên Lê N, sinh ngày 24/8/2000 và Lê T, sinh ngày 02/10/2006, hiện tại Lê T đang do ông S nuôi dưỡng. Cháu Lê T có nguyện vọng sống chung cùng với ông S nên chấp nhận yêu cầu của ông S là phù hợp, ông S không yêu cầu bà Trần N cấp dưỡng nuôi con, nên không đặt ra xem xét. Riêng Lê N đã trưởng thành và tự lao động nuôi sống bản thân, không có yêu cầu, nên không đặt ra xem xét. Về tài sản chung và nợ chung không có, không có yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Vụ án tranh chấp ly hôn là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện, thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo lãnh thổ, được quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bà Trần N và ông Lê S xin vắng mặt tham gia phiên tòa. Nay căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt là có căn cứ.

[2] Về hôn nhân: Năm 1999, ông Lê S và bà Trần N chung sống với nhau như vợ chồng và có đăng ký kết hôn tại Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Ông Lê S và bà Trần N xác định không còn tình cảm dành cho nhau. Nhận thấy, quan hệ hôn nhân của ông Lê S và bà Trần N đã trong tình trạng trầm trọng, đã không còn chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2013 cho đến nay mà không thể hòa giải hàn gắn được. Xét cho ông Lê S ly hôn với bà Trần N là có cơ sở.

[3] Về con chung: Có hai người con chung tên Lê N, sinh ngày 24/8/2000 và Lê T, sinh ngày 02/10/2006, hiện tại Lê T đang do ông S nuôi dưỡng. Mặc khác cháu Lê T có nguyện vọng sống chung cùng với ông S nên chấp nhận yêu cầu của ông S là phù hợp, ông S không yêu cầu bà Trần N cấp dưỡng nuôi con, nên không đặt ra xem xét.

Riêng Lê N đã trưởng thành và tự lao động nuôi sống bản thân, không có yêu cầu, nên không đặt ra xem xét.

[4] Về tài sản chung: Không có, nên không đặt ra xem xét.

[5] Về nợ chung: Không có, nên không đặt ra xem xét.

[6] Từ những phân tích và nhận định nêu trên xét thấy quan điểm đề nghị của Viện kiểm sát về hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung là có căn cứ nên được chấp nhận.

[7] Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Ông Lê S phải chịu theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Áp dụng các Điều 28, 35, 39 và 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận cho ông Lê S ly hôn với bà Trần N.

2. Về con chung: Giao Lê T, sinh ngày 02/10/2006 cho ông Lê S tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng. Bà Trần N không phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà Trần N có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

3. Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Ông Lê S phải chịu 300.000 đồng.

Ông Lê S đã nộp tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng, theo biên lai thu tiền số 0012197 ngày 16/11/2020, của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Tân, nay chuyển thu.

Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Ông Lê S và bà Trần N có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 11/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về