Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 08/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con 

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON 

Ngày 08 tháng 01 năm 2021, tại Phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 100/2020/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 7 năm 2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 124/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Mỹ N, sinh năm 1984. (có mặt) Địa chỉ thường trú: Ấp T, xã Y, thành phố H, tỉnh Kiên Giang. Chỗ ở hiện nay: Ấp T2, xã T3, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

2. Bị đơn: Anh Ngô Thanh S, sinh năm 1981. (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 1, ấp T, xã Y, thành phố H, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 29 tháng 6 năm 2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Đặng Thị Mỹ N trình bày: Chị N và anh Ngô Thanh S cưới nhau vào năm 2001 được sự chấp thuận của cha mẹ đôi bên, có đăng ký kết hôn và được UBND xã Y, thị xã H, tỉnh Kiên Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn số 68/2011, quyển số 01/2011 ngày 31/8/2011. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến năm 2007 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cự cãi, anh S hành hung, đánh đập chị N nhiều lần, nên chị N đã cùng các con về nhà cha mẹ ruột của chị N tại huyện A, tỉnh Kiên Giang sinh sống cho đến nay. Nhận thấy mâu thuẫn trong cuộc sống giữa vợ chồng không thể tự giải quyết, dẫn đến chị N không còn tình cảm với anh S và cả hai không còn chung sống với nhau. Nay chị N yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết cho chị được ly hôn với anh S.

Về con chung: Chị N trình bày giữa chị và anh S có với nhau 02 đứa con chung lần lượt tên Ngô Thị Kiều C, sinh ngày 20/7/2002, giới tính nữ; Ngô Chí K, sinh ngày 20/7/2007, giới tính nam. Khi ly hôn, chị N yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi Ngô Chí K đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con. Đối với Ngô Thị Kiều C đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị N trình bày giữa chị và anh S sẽ tự thỏa thuận giải quyết tài sản chung và không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Từ khi thụ lý vụ án và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Ngô Thanh S đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa án làm việc, không thể hiện ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị N.

Nguyên đơn đã cung cấp cho Tòa án các tài liệu chứng cứ liên quan yêu cầu khởi kiện bao gồm: Giấy chứng nhận kết hôn giữa chị N và anh S (bản chính); 02 trích lục khai sinh của con chung tên Ngô Thị Kiều C, Ngô Chí K (bản sao); Giấy chứng minh nhân dân của chị N (phô tô); Sổ hộ khẩu ch hộ Ngô Thanh S (bản phô tô chứng thực).

Tại phiên tòa, chị N vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến tại phiên tòa như sau:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử: Vụ án thụ lý là đúng thẩm quyền và đúng quan hệ pháp luật; xác định đầy đủ và đúng tư cách những người tham gia tố tụng; lập hồ sơ, thu thập chứng cứ đầy đủ ; cấp, tống đạt các văn bản tố tụng cho Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng đúng quy định; gửi Quyết định đưa vụ án ra xét xử và gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu đúng quy định.

- Đối với việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị N được ly hôn với anh S, giao cháu Ngô Chí K, sinh ngày 20/7/2007, giới tính nam cho chị N trực tiếp nuôi và ghi nhận việc chị N không yêu cầu anh S cấp dưỡng chi phí nuôi con chung, về tài sản chung và nợ chung do các bên không yêu cầu nên không xem xét giải quyết. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Đặng Thị Mỹ N khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Ngô Thanh S và yêu cầu được quyền nuôi con chung. Đây là tranh chấp ly hôn, nuôi con chung theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn anh Ngô Thanh S có nơi cư trú tại ấp T, xã Y, thành phố H, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Kiên Giang.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

Về nội dung:

[3] Về hôn nhân: Căn cứ vào Giấy chứng nhận kết hôn số 68/2011, quyển số 01/2011 ngày 31/8/2011 của ủy ban nhân dân xã Y và lời trình bày của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xác định giữa chị Đặng Thị Mỹ N và anh Ngô Thanh S có quan hệ hôn nhân, được UBND xã Y, thị xã H (nay là thành phố H), tỉnh Kiên Giang cho đăng ký kết hôn vào ngày 31/8/2011, nên đây là hôn nhân hợp pháp, đảm bảo điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn phù hợp quy định của pháp luật.

[4] Đối với yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị N với anh S, Hội đồng xét xử xét thấy chị N trình bày cuộc sống vợ chồng lâm vào tình trạng trầm trọng, mâu thuẫn là do giữa anh chị thường xuyên cãi nhau, anh S hành hung, đánh đập chị N nhiều lần, nên chị N đã cùng các con về nhà cha mẹ ruột của chị N tại huyện A, tỉnh Kiên Giang sinh sống. Cho đến nay giữa anh chị cũng không về chung sống lại với nhau, không quan tâm, chăm sóc, thăm hỏi nhau và chị N không còn tình cảm với anh S. Tình cảm vợ chồng giữa anh, chị đã rạn nứt dẫn đến không thể tiếp tục chung sống với nhau. Qua xác minh tại địa phương của chị N và anh S sinh sống thì địa phương không rõ việc mâu thuẫn vợ chồng giữa anh, chị nhưng hiện nay anh, chị không còn chung sống với nhau. Trong thời gian chuẩn bị xét xử, Tòa án đã thông báo tổ chức hòa giải cho các bên nhưng anh S vắng mặt không lý do, nên Tòa án không tiến hành hòa giải được quan hệ hôn nhân cho anh, chị. Điều này chứng tỏ anh S không thể hiện ý kiến, nguyện vọng mong muốn hàn gắn, đoàn tụ với chị N. Xét thấy giữa chị N và anh S không còn tồn tại nghĩa vụ thương yêu, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau và không còn chung sống với nhau; hôn nhân giữa anh, chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, hạnh phúc hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của chị N là có cơ sở chấp nhận. Căn cứ Điều 19 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị N được ly hôn anh S.

[5] Về con chung: Chị N và anh S có với nhau 02 đứa con chung lần lượt tên Ngô Thị Kiều C, sinh ngày 20/7/2002, giới tính nữ và Ngô Chí K, sinh ngày 20/7/2007, giới tính nam. Chị N yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi Ngô Chí K đến tuổi trưởng thành, phù hợp với nguyện vọng của cháu K muốn được sống với mẹ là chị N, nên cần tiếp tục giao cháu K cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng, phù hợp quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Ghi nhận việc chị N không yêu cầu anh S cấp dưỡng chi phí nuôi con chung. Chị N cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh S trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Đối với con chung tên Ngô Thị Kiều C đã trưởng thành, các bên không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Chị N trình bày giữa chị và anh S tự thỏa thuận giải quyết tài sản chung và không có nợ chung, không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[7] Về án phí: Chị N phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các điều 19, 56, 57, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị Mỹ N được ly hôn với anh Ngô Thanh S.

2. Về quan hệ nuôi con: Giao cháu Ngô Chí K, sinh ngày 20/7/2007, giới tính nam cho chị Đặng Thị Mỹ N trực tiếp nuôi. Ghi nhận việc chị N không yêu cầu anh Ngô Thanh S cấp dưỡng chi phí nuôi con chung. Chị N cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh S trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Chị N và anh S không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Đặng Thị Mỹ N phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng. Đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị N đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0003749 ngày 24/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H, tỉnh Kiên Giang, chị N không phải nộp thêm.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 08/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con 

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tiên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về