Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 05/01/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG HỒ, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/01/2021 VỀ LY HÔN

Trong ngày 05 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Hồ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 388/2020/TLST- HNGĐ ngày 05 tháng 10 năm 2020, về việc: “Ly hôn ”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 141/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 27 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

 1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Hồng D, sinh năm 1984 Địa chỉ: Số 1/8, ấp H, xã H, huyện H, tỉnh Vĩnh Long.

2. Bị đơn: Chị Lâm Thị Cẩm G, sinh năm 1983 ( vắng mặt) Địa chỉ HKTT: số 19/17, ấp B, xã H, huyện H, tỉnh Vĩnh Long. Địa chỉ Tạm trú: Số 1/8, ấp H, xã H, huyện H, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 31 tháng 7 năm 2020 nguyên đơn anh Nguyễn Hồng D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Năm 2020 anh và chị G có quen biết và cả hai tiến hành tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán, sau đó anh và chị G đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Hạnh, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long và được Ủy ban nhân dân xã H, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 24/02/2020, sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống ở bên gia đình anh D, thời gian  đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến tháng 5/2020 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, bất đồng ý kiến dẫn đến cự cải, chị G bỏ về nhà cha mẹ ruột sống, không về bên gia đình anh D, anh có đến nhà rước chị G về nhưng chị G không đồng ý về, sau đó chị G bỏ nhà mẹ ra đi cho đến nay, từ đó anh không có liên lạc với chị G. Nay anh Nguyễn Hồng D nhận thấy không còn tình cảm với chị G nên yêu cầu ly hôn với chị G.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: không có, anh không yêu cầu giải quyết.

Tòa án đã gởi thông báo thụ lý và thông báo về phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho chị Lâm Thị Cẩm G đến Tòa án làm việc nhưng chị G không đến. Ngày 27/11/2020 mẹ chị G có làm việc với Tòa án, bà cho rằng chị G đăng ký hộ khẩu tại nhà bà ấp Tân Bình, xã Tân Hạnh, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long, vào tháng 02/2020 G và D kết hôn với nhau, sau khi kết hôn G về sống bên chồng, hôn nhân có hạnh phúc bà không biết, tự nhiên G về nhà bà và bỏ đi cho đến nay, G bỏ đi khoảng 05 tháng, đến gần 01 tháng nay G có về, bà có nói Tòa án mời xuống làm việc, G nói tự anh D làm gì thì làm G không xuống Tòa án.

Xét Tòa án đã triệu tập chị G đến Tòa án giải quyết ly hôn, người nhà chị đã nhận thay văn bản tố tụng của Tòa, đến ngày làm việc chị G không đến, vì vậy Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Tại phiên tòa hôm nay:

Nguyên đơn anh Nguyễn Hồng D vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn với chị Lâm Thi Cẩm G, vì vợ chồng chung sống không hạnh phúc, thường cự cải nhau, chị G tự ý bỏ nhà ra đi khoảng 5 tháng nay không về, anh không biết chị G đi đâu nên không tìm được chị G, anh nghe mẹ chị G nói chị G có về và nói Tòa án mời xuống làm việc G nói tự anh D làm gì thì làm G không xuống. Hiện nay chị G bỏ đi không hàn gắn được, nên yêu cầu Tòa án cho anh được ly hôn. Về con chung: Không có. Về tài sản chung và về nợ chung anh không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn chị Lâm Thị Cẩm G đã được Tòa án triệu tập đến Tòa án xét xử lần hai nhưng chị G vẫn vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Hồ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng đầy đủ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tòa án xác minh sự vắng mặt của bị đơn tại nơi cư trú, việc Tòa án thu thập chứng cứ đúng quy định tại Điều 97 Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên bị đơn không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án và không gởi bản khai ý kiến là không thực hiện quyền và nghĩa vụ theo Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Xét hôn nhân của anh D và chị G thật sự mâu thuẫn trầm trọng, không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì chị G bỏ đi anh D đã sang tìm và rướt chị về, chị không về từ tháng 5/2020 cho đến nay. Theo  quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân gia đình “ Vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đở nhau” ở đây chị G không thực hiện mà bỏ mặc cho anh D tự sống một mình.

Từ phân tích trên trên:

Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 51, 53, 56 Luật hôn nhân gia đình, khoản 5 Điều 27, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Hồng D, cho anh Nguyễn Hồng D ly hôn với chị Lâm Thị Cẩm G. Về con chung, tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết. Về án phí: Anh D phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Lâm Thị Cẩm G đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần đến Tòa án để mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng chị G vẫn không đến Tòa án làm việc, Tòa án có làm việc người nhà xác nhận chị G có đăng ký hộ khẩu thường trú ở ấp Tân Bình, xã Tân Hạnh, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long, hiện nay chị G không còn sinh sống ở địa phương, chị G bỏ đi, có người thân nhận thay. Xét chị Lâm Thị Cẩm G ở địa chỉ này từ đó cho đến nay khi chị G bỏ đi cũng không thay đổi địa chỉ, nên Tòa án tiến hành giải quyết vụ án ly hôn này theo quy định của pháp luật.

Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử đã triệu tập lần hai chị G đến Tòa án xét xử, người nhà chị G nhận thay, đến ngày xét xử chị G vẫn vắng mặt. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng xét xử thống nhất giải quyết vắng mặt chị Lâm Thị Cẩm G.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Hồng D và chị Lâm Thị Cẩm G tiến đến hôn nhân trên cơ sở quen biết, cả hai có tổ chức đám cưới, vợ chồng chung sống và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Hạnh, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long và được Ủy ban nhân dân xã Tân Hạnh, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 24/02/2020, nên đây là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Xét về mâu thuẫn anh D cho rằng đã mâu thuẫn trầm trọng, trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do cự cải nhau, dẫn đến chị G tự ý bỏ đi được 05 tháng nay, người nhà chị G khai chị G bỏ đi, có về được khoảng 01 tháng nay và biết Tòa án mời đến để giải quyết ly hôn, nhưng chị G không đến Toà án và không gởi bản khai ý kiến gì về việc anh D yêu cầu ly hôn. Xét hôn nhân giữa anh D và chị G đã mâu thuẫn trầm trọng, hôn nhân không đạt được, cả hai hiện nay không còn sống chung, không còn yêu thương, chăm sóc lẫn nhau, chị G bỏ nhà ra đi mà không nghỉ đến tình cảm vợ chồng.

 Vì vậy chấp nhận cho anh Nguyễn Hồng D được ly hôn chị Lâm Thị Cẩm G là phù hợp quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.2.] Về nuôi con chung: Không có, anh D không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra giả quyết

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Anh D không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Xét lời phát biểu của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Hồ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận như những nhận định ở trên.

[3] Về án phí: Các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ Điều 9, 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Hồng D.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Nguyễn Hồng D được ly hôn với chị Lâm Thị Cẩm G .

2. Về con chung: Không có, anh D không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết 3. Về tài sản chung và nợ chung: Anh D không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Buộc anh Nguyễn Hồng D phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí hôn nhân sơ thẩm. Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0006063 ngày 05/10/2020 của cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Hồ, anh D đã nộp xong, không phải nộp thêm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Án xử sơ thẩm công khai báo cho các đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Đối với người vắng  mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được thông báo, niêm yết tại nơi cư trú của người vắng mặt ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

291
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 05/01/2021 về ly hôn

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Hồ - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về