Bản án 02/2021/DS-ST ngày 29/01/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC YÊN, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 02/2021/DS-ST NGÀY 29/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 01 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số: 72/2020/TLST-TCDS ngày 16/12/2020 về việc Tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2021/QĐXXST - DS ngày 20 ngày 01 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Lương Thị T, sinh năm 1986

Địa chỉ: Tổ 01, thị trấn Y, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái (có mặt)

2. Bị đơn: anh Lăng Tiến H, sinh năm 1991

Địa chỉ: Tổ 12, thị trấn Y, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái (vắng mặt, có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 16/12/2020 và các lời khai tiếp theo nguyên đơn Lương Thị T trình bày:

Ngày 08/5/2020 anh Lăng Tiến H, trú tại: Tổ 12, thị trấn Y, huyện L, tỉnh Yên Bái có vay của chị số tiền mặt là 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng), thời hạn vay đến hết ngày 01/6/2020, lãi suất do hai bên tự thỏa thuận và lập thành văn bản. Nhưng khi hết thời hạn vay anh H không thanh toán số tiền đã vay cũng như tiền lãi, mặc dù chị đã yêu cầu nhiều lần. Nay chị khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc anh H phải trả tổng số gốc đã vay là 300.000.000 đồng và lãi suất theo quy định của pháp luật kể từ ngày vay.

Tại bản trình bày ý kiến ngày 31/12/2020 bị đơn Lăng Tiến H trình bày: Anh có vay của chị Lương Thị T số tiền là 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng) với mục đích vay tiền chi phí làm ăn, nhưng do làm ăn thua lỗ nên chưa thể thanh toán ngay số tiền đã vay cho chị T và đề nghị được thanh toán dần. Hiện nay do điều kiện đang đi làm ăn xa, anh H đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt trong tất cả các phiên xét xử.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Lục Yên đã tống đạt hợp lệ các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đến bị đơn Lăng Tiến H nhưng anh H vắng mặt. Do đó vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo khoản 1 Điều 207 của Bộ luật Dân sự. Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Yên phát biểu ý kiến cho rằng trong quá trình tố tụng, thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng thủ tục tố tụng dân sự; quyền và nghĩa vụ của các đương sự được đảm bảo đúng quy định định pháp luật, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử về nội dung vụ án như sau: Căn cứ các điều 463, 466, 468 Bộ luật dân sự, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc anh Lăng Tiến H phải thanh toán cho chị Lương Thị T số tiền đã vay và lãi suất theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục t tụng: Theo quy định tại khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái.

Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn Lăng Tiến H được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Vì vậy, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Xét chứng cứ chị Lương Thị T xuất trình tại hồ sơ là 01 giấy vay tiền, có chữ kí của hai bên (bên cho vay và bên vay) trong đó thể hiện: anh Lăng Tiến H, sinh năm 1991 hiện đang trú tại Tổ 12, thị trấn Y, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái có vay chị Lương Thị T trú tại Tổ 01, thị trấn Y, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái số tiền là 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng), có thỏa thuận lãi suất cho vay nhưng không ghi rõ trong hợp đồng, thời hạn vay từ ngày 08/5/2020 đến hết ngày 01/6/2020. Đây được xác định là hợp đồng vay tài sản, có thỏa thuận về lãi suất và có thời hạn trả nợ theo quy định tại Điều 463 của Bộ luật dân sự.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Quá trình thực hiện hợp đồng, chị T trình bày từ khi vay đến khi hết hạn trả nợ, anh H không thanh toán số tiền đã vay. Bị đơn thừa nhận có vay nhưng chưa trả được, mặt khác Tòa án đã tiến hành xác minh địa chỉ của anh H và được chính quyền địa phương xác nhận địa chỉ của anh Lăng Tiến H theo đúng địa chỉ chị T đã cung cấp và ghi trong hợp đồng bằng văn bản, đây được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở” theo quy định tại Điều 5, Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 05/5/2017. Vì vậy, việc anh H còn nợ T số tiền 300.000.000đ là đúng thực tế. Đối với hợp đồng vay tài sản đã quá hạn trả nợ nhưng bên vay vẫn chưa thanh toán đủ số tiền đã vay là vi phạm nghĩa vụ thanh toán, việc nguyên đơn đòi lại tài sản là có căn cứ chấp nhận.

[4] Về yêu cầu tính lãi suất:

Khi giao kết hợp đồng chị T, anh H có thỏa thuận về lãi nhưng không xác định rõ lãi suất. Do đó, căn cứ các điều 466, 468 Bộ luật dân sự 2015; khoản 2 điều 5 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm thì số tiền lãi tính theo quy định pháp luật cụ thể như sau:

Tiền lãi trên nợ gốc trong hạn chưa trả = 300.000.000đ x 0,83% x 24 ngày = 1.992.000đ

Tiền lãi trên nợ lãi chưa trả = 1.992.000đ x 0,83% x 07 tháng 28 ngày = 131.000đ

Tiền lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả = 300.000.000đ x 150% x 1,66% x 07 tháng 28 ngày = 59.262.000đ

Tổng số tiền lãi là: 61.385.000đ (sáu mươi mốt triệu ba trăm tám mươi lăm nghìn đồng)

Tổng số tiền gốc và tiền lãi anh Lăng Tiến H phải có nghĩa vụ thanh toán cho chị Lương Thị T là: 300.000.000đ+ 61.385.000đ = 361.385.000d (ba trăm sáu mươi mốt triệu ba trăm tám mươi lăm nghìn đồng).

[4] Về án phí: anh Lăng Tiến H phải chịu toàn bộ tiền án phí theo quy định của pháp luật.

[5] Về quyền kháng cáo: các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271, 273 của Bộ Luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các điều 357, 463, 466, 468 của Bộ luật Dân sự; khoản 3 Điều 26, Điều 35, Điều 36, Điều 147, 228, 273, 278 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ khoản 2 điều 26 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Buộc anh Lăng Tiến H phải có nghĩa vụ thanh toán cho chị Lương Thị T tổng số tiền là: 361.385.000đ (ba trăm sáu mươi mốt triệu ba trăm tám mươi lăm nghìn đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015

2. Về án phí: anh Lăng Tiến H phải chịu 18.069.250đ (Mười tám triệu không trăm sáu mươi chín nghìn hai trăm năm mươi đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Chị Lương Thị T được hoàn lại 7.500.000đ (Bảy triệu năm trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái theo biên lai số AA/2017/0008418 ngày 16/12/2020.

3. Về quyền kháng cáo: chị T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, anh H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/DS-ST ngày 29/01/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:02/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Yên - Yên Bái
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về