Bản án 02/2021/DS-ST ngày 19/02/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M’ĐRẮK, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 02/2021/DS-ST NGÀY 19/02/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG 

Ngày 19 tháng 02 năm 2021 tại hội trường Tòa án nhân dân huyện M’Đrắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 122/2020/TLST-DS ngày 10 tháng 11 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2021/QĐXXST-DS ngày 11 tháng 01 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 09/2021/QĐST-DS ngày 26/01/2021 giữa các đương sự:

1/ Nguyên đơn: Ngân hàng N (Sau đây gọi là Ngân hàng). Trụ sở: Số 02, LH, phường C, quận B, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lưu Hải Th – Chức vụ: Giám đốc Ngân hàng N – Chi nhánh huyện M, tỉnh Đắk Lắk (sau đây gọi là Ngân hàng). Địa chỉ: Số 55, đường N, thị trấn M, huyện M, tỉnh Đắk Lắk.

Người được ủy quyền tham gia tố tụng: Ông Nguyễn Văn T – Chức vụ:

Trưởng phòng Kế hoạch kinh doanh (Theo văn bản ủy quyền số: 291/NHNoMDR-UQ ngày 20/10/2020). Có mặt.

2/ Bị đơn: Vợ chồng ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1982, bà Bùi Thị Tr, sinh năm 1985. Cùng địa chỉ: Thôn 02, xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk. Đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng của nguyên đơn trình bày:

Ngày 22/11/2017, vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Bùi Thị Tr ký kết hợp đồng tín dụng số 5210LAV201702808 với Ngân hàng N, chi nhánh M, tỉnh Đắk Lắk để vay số tiền 40.000.000 đồng. Mục đích vay: Chăm sóc mía; Thời hạn vay:

12 tháng; Ngày trả nợ gốc: 20/11/2018, tiền lãi trả theo kỳ gốc. Lãi suất trong hạn:

10,5 %/ năm; Lãi suất quá hạn bằng 150% mức lãi suất trong hạn.

Đến ngày 30/11/2018, Ngân hàng thỏa thuận ký kết giấy đề nghị vay lưu vụ kiêm phương án sử dụng vốn vay với bà Bùi Thị Tr điều chỉnh ngày trả nợ gốc hợp đồng tín dụng số 5210LAV201702808 sang ngày 20/11/2019.

Ngày 04/07/2019, vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Bùi Thị Tr ký kết hợp đồng tín dụng số 5210LAV201901229 với Ngân hàng để vay số tiền 280.000.000 đồng. Mục đích vay: Chăn nuôi bò; Thời hạn vay: 12 tháng; Ngày trả nợ gốc:

04/07/2020, tiền lãi trả theo kỳ gốc. Lãi suất trong hạn: 10,5%/ năm; Lãi suất quá hạn bằng 150% mức lãi suất trong hạn.

Để bảo đảm cho các khoản vay trên, ngày 09/05/2018, vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Bùi Thị Tr đã thế chấp cho Ngân hàng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: BA439354 do Ủy ban nhân dân huyện M’, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 15/11/2012 cho ông Nguyễn Văn Vững và bà Bùi Thị Tr, với diện tích là 1.125 m2; thửa đất số 6-A; Tờ bản đồ 11; Địa chỉ đất tại thôn 2, xã C, huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk (theo hợp đồng thế chấp số: LD03/2018/HĐTC).

Quá trình thực hiện hợp đồng, vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Bùi Thị Tr trả cho Ngân hàng 7.801.642 đồng tiền lãi của hợp đồng tín dụng số 5210LAV201702808 (lãi tính đến hết ngày 30/09/2019). Do vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Bùi Thị Tr vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo các hợp đồng tín dụng trên nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Bùi Thị Tr phải trả cho Ngân hàng số nợ tính đến hết ngày 19/02/2021 là:

48.480.550 đồng, bao gồm 40.000.000 đồng nợ gốc và 8.480.550 đồng nợ lãi (theo hợp đồng tín dụng số 5210LAV201702808 ngày 22/11/2017, điều chỉnh ngày 20/11/2019) và 337.309.863 đồng, bao gồm 280.0000.000 đồng nợ gốc và 57.309.863 đồng nợ lãi (theo hợp đồng tín dụng số 5210LAV201901229 ngày 04/07/2019). Từ ngày 20/02/2021, vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Bùi Thị Tr phải tiếp tục trả tiền lãi trên nợ gốc theo quy định của hợp đồng tín dụng.

Trường hợp vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Bùi Thị Tr không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ trả nợ không đầy đủ cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

* Đối với bị đơn vợ chồng ông Đặng Văn H, bà Lưu Thị H: Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng. Quá trình xác minh, đại diện chính quyền địa phương cung cấp thông tin hiện nay vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Bùi Thị Tr không có mặt tại địa phương nên Tòa án tiến hành niêm yết công khai để vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Bùi Thị Tr đến Tòa án để giải quyết vụ án nhưng vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Bùi Thị Tr vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk phát biểu ý kiến về việc chấp hành pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và đương sự đồng thời phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:

Thẩm phán xác định đúng quan hệ pháp luật, thẩm quyền giải quyết, tư cách tham gia tố tụng của các đương sự trong vụ án. Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án cũng như Hội đồng xét xử tại phiên tòa đảm bảo quy định về trình tự thủ tục tố tụng dân sự. Đối với bị đơn vắng mặt là vi phạm quy định về quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định về nội dung vụ án như sau:

[1] Về tố tụng:

Về quan hệ tranh chấp: Căn cứ đơn khởi kiện của nguyên đơn đề ngày 20/10/2020, Tòa án xác định quan hệ pháp luật: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” được quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn có nơi cư trú tại thôn 2, xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk theo điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn ủy quyền cho người đại diện tham gia phiên tòa, căn cứ Điều 85 của Bộ luật tố tụng dân sự chấp nhận việc ủy quyền của nguyên đơn. Bị đơn đều vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung:

[2.1] Nguyên đơn cung cấp hợp đồng tín dụng do các bên ký kết số 5210LAV201702808 ngày 22/11/2017, điều chỉnh ngày 20/11/2019 và hợp đồng tín dụng số 5210LAV201901229 ngày 04/07/2019. Để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, bên vay đã thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo hợp đồng thế chấp số LD03/2018/HĐTC ngày 09/05/2018 đã được chứng thực tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk. Các bên giao kết hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật. Nội dung hợp đồng ghi nhận khi đến kỳ hạn trả nợ hoặc kết thúc thời hạn cho vay, nếu bên vay không có khả năng trả nợ đúng hạn gốc, lãi và không được chấp thuận cho cơ cấu lại nợ gốc, lãi thì Ngân hàng sẽ chuyển toàn bộ số dư nợ của hợp đồng tín dụng sang nợ quá hạn và bên vay phải chịu lãi suất nợ quá hạn. Đã quá thời hạn trả nợ nhưng bên vay không thực hiện đúng với nội dung hợp đồng đã cam kết. Do đó, đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện và chứng cứ do nguyên đơn cung cấp là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự để buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ hợp đồng đối với nguyên đơn.

Đối với khoản tiền mà Ngân hàng yêu cầu vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Bùi Thị Tr phải trả tính đến ngày xét xử, ngày 19/02/2021 là: 48.480.550 đồng, bao gồm 40.000.000 đồng nợ gốc và 8.480.550 đồng nợ lãi theo hợp đồng tín dụng số 5210LAV201702808 ngày 22/11/2017, điều chỉnh ngày 20/11/2019 và 337.309.863 đồng, bao gồm 280.0000.000 đồng nợ gốc và 57.309.863 đồng nợ lãi theo hợp đồng tín dụng số 5210LAV201901229 ngày 04/07/2019. Quá trình thực hiện hợp đồng, vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Bùi Thị Tr trả cho Ngân hàng 7.801.642 đồng tiền lãi của hợp đồng tín dụng số 5210LAV201702808 (lãi tính đến hết ngày 30/09/2019). Xét yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng đối với khoản tiền cho vay cũng như tiền lãi phát sinh là phù hợp với nội dung hợp đồng mà hai bên đã thỏa thuận. Vì vậy, Hội đồng xét xử buộc vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Bùi Thị Tr phải trả cho Ngân hàng tổng số tiền nợ tính đến ngày xét xử, ngày 19/02/2021 là 48.480.550đ + 337.309.863đ = 385.790.413 đồng.

Kể từ ngày 20/02/2021 đến khi trả xong nợ, vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Bùi Thị Tr còn phải tiếp tục chịu tiền lãi đối với Ngân hàng về số nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

[2.2] Về tài sản thế chấp: Để bảo đảm cho các khoản vay trên, ngày 09/5/2018 vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Bùi Thị Tr đã ký hợp đồng thế chấp số: LD03/2018/HĐTC và Phụ lục hợp đồng ngày 04/7/2019 để thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA439354 do Uỷ ban nhân dân huyện M, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 15/11/2012 cho ông Nguyễn Văn V và bà Bùi Thị Tr, với diện tích là 1.125 m2; Thửa đất số 6-A; Tờ bản đồ 11; Địa chỉ đất tại thôn 2, xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk. Hội đồng xét xử xét thấy việc ký kết hợp đồng thế chấp tài sản giữa các đương sự là tự nguyện, tuân thủ nội dung và hình thức, đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật. Căn cứ khoản 2 Điều 292, Điều 293, Điều 317, Điều 318 và Điều 323 của Bộ luật dân sự năm 2015, khoản 1 Điều 58 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm. Trường hợp ông Nguyễn Văn V, bà Bùi Thị Tr không tự nguyện thanh toán hoặc không thanh toán đầy đủ số nợ gốc và lãi suất phát sinh nói trên thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

Sau khi vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Bùi Thị Tr thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng phải lại cho ông Nguyễn Văn V, bà Bùi Thị Tr 01 (Một) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Bản gốc) mà ông Nguyễn Văn V, bà Bùi Thị Tr đã thế chấp theo hợp đồng thế chấp số LD03/2018/HĐTC ngày 09/05/2018.

[3] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận, căn cứ Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 26 Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, buộc vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Bùi Thị Tr phải chịu 19.289.521 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm (theo mức 385.790.413 đồng x 5%).

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 85, Điều 92, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 2 Điều 292, Điều 293, Điều 137, Điều 138, Điều 463, Điều 466, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng, khoản 1 Điều 58 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N: Buộc vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Bùi Thị Tr phải trả cho Ngân hàng N số nợ tính đến hết ngày 20/02/2021 là: 357.426.029 đồng (Ba trăm năm mươi bảy triệu, bốn trăm hai mươi sáu nghìn, không trăm hai mươi chín đồng) bao gồm 40.000.000 đồng nợ gốc và 4.924.933 đồng nợ lãi theo hợp đồng tín dụng số 5210LAV201702808 ngày 22/11/2017, điều chỉnh ngày 20/11/2019 và 280.000.000 đồng nợ gốc và 32.501.096 đồng nợ lãi theo hợp đồng tín dụng số 5210LAV201901229 ngày 04/07/2019.

Kể từ ngày 20/02/2021 đến khi trả xong nợ, vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Bùi Thị Tr còn phải tiếp tục chịu tiền lãi đối với Ngân hàng về số nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

Trường hợp vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Bùi Thị Tr thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng phải lại cho ông Nguyễn Văn V, bà Bùi Thị Tr 01 (một) Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số BA439354 do Uỷ ban nhân dân huyện M, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 15/11/2012 cho ông Nguyễn Văn Vững và bà Bùi Thị Tr (Bản gốc).

Trường hợp vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Bùi Thị Tr không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ trả nợ không đầy đủ thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự xử lý tài sản bảo đảm theo hợp đồng thế chấp tài sản số LD03/2018/HĐTC ngày 09/05/2018 và Phụ lục hợp đồng ngày 04/7/2019 để thu hồi nợ.

2. Về án phí:

- Vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Bùi Thị Tr phải chịu 19.289.521 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

- Trả lại cho Ngân hàng N 15.370.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk theo biên lai số: AA/2019/0014493 ngày 09/11/2020.

3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm trong hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/DS-ST ngày 19/02/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:02/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện M'Đrắk - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về