Bản án 02/2020/KDTM-ST ngày 28/02/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM DƯƠNG, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 02/2020/KDTM-ST NGÀY 28/02/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 28 tháng 02 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 07/2019/TLST - KDTM ngày 10 tháng 10 năm 2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2020/QĐXXST – KDTM ngày 10 tháng 01 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP QTVN;

Địa chỉ: Tầng 1 (Tầng trệt) và tầng 2 Tòa nhà Sailing Tower, số 111A Pasteur, phường Bến Nghé, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Hàn Ngọc Vũ – Tổng Giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Trần Thị Thu Hà – Giám đốc Trung tâm quản lý nợ khách hàng cá nhân – Khối quản lý rủi ro – Ngân hàng TMCP QTVN (Giấy ủy quyền số 3.0141.17 ngày 16 tháng 01 năm 2017).

Người được ủy quyền lại: Ông Chu Cao T – Cán bộ xử lý nợ của Ngân hàng TMCP QTVN, (Theo Giấy ủy quyền số: 74345.20 ngày 10 tháng 10 năm 2019).

Địa chỉ: Tầng M, tòa nhà Tổng Công ty Giấy Việt Nam, số 37 Ngô Quyền, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, (Có mặt).

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Ch, sinh năm 1971;

Địa chỉ: Thôn Th, xã HL, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1948, (Có mặt).

Anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 1982, (Vắng mặt). Chị Đỗ Thị Đ, (Vắng mặt).

Đều địa chỉ: Thôn Th, xã HL, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị T: Anh Nguyễn Văn Ch, sinh năm 1971, (Theo Giấy ủy quyền ngày 25 tháng 12 năm 2019).

Địa chỉ: Thôn Th, xã HL, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 09 tháng 9 năm 2019 và những lời khai tiếp theo người đại diện theo ủy quyền của của nguyên đơn Ngân hàng TMCP QTVN, ông Chu Cao T trình bày:

Ngày 22 tháng 11 năm 2014, Ngân hàng TMCP QTVN cùng anh Nguyễn Văn Ch ký kết Hợp đồng tín dụng số 018CN554.HĐTD.14/VIB với số tiền vay 250.000.000đồng theo Đơn đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 018CN554.14.KU1/VIB ngày 22 tháng 11 năm 2014. Thời hạn vay 60 tháng kể từ ngày 22 tháng 11 năm 2014 đến ngày 22 tháng 11 năm 2019, lãi suất vay là 9,99%/năm trong 12 tháng đầu tiên. Sau 12 tháng lãi suất được điều chỉnh 03 tháng/lần bằng lãi suất cho vay. Mục đích vay để bổ sung vốn kinh doanh trả góp trung hạn phục vụ hoạt động xây dựng công trình dân dụng. Hình thức giải ngân bằng tiền mặt. Phương thức trả nợ hoàn trả khoản vay gốc hàng tháng vào ngày 25 với số tiền 4.166.667đồng, số tiền còn lại trả vào kỳ cuối cùng ngày trả gốc đầu tiền ngày 25 tháng 12 năm 2014, hoàn trả lãi hàng tháng vào ngày 25, ngày trả lãi đầu tiền là ngày 25 tháng 12 năm 2014.

Để đảm bảo cho khoản vay trên, anh Nguyễn Văn Ch cùng các thành viên trong hộ gia đình là bà Nguyễn Thị T, anh Nguyễn Văn Th, chị Đỗ Thị Đ thế chấp bằng tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 144 (1), tờ bản đồ số 8, có diện tích 140m2, địa chỉ ở thôn Th, xã HL, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất số W 236618 đã được Uỷ ban nhân dân huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc cấp ngày 12/12/2002, vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02382 QSDĐ/1064/QĐ-UB cấp cho hộ bà Nguyễn Thị T. Tài sản được thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất/tài sản gắn liền với đất công chứng số: 4766/2014/HĐTC, quyển số 06TP/CC - SCC/HĐGD được Văn phòng Công chứng Vĩnh Phú, tỉnh Vĩnh Phúc công chứng ngày 20 tháng 11 năm 2014 và được đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật.

Quá trình thực hiện hợp đồng, anh Nguyễn Văn Ch đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi cho Ngân hàng nên toàn bộ khoản vay theo hợp đồng tín dụng nêu trên bị chuyển nợ quá hạn ngày 25 tháng 5 năm 2017. Tổng số nợ của anh Ch tính đến ngày 28 tháng 02 năm 2020 là 200.249.973đồng. Trong đó, nợ gốc là 129.051.620đồng, nợ lãi trong hạn là 23.056.546đồng, nợ lãi quá hạn là 48.141.807đồng.

Thực hiện hợp đồng, anh Nguyễn Văn Ch đã trả được cho Ngân hàng TMCP QTVN số tiền 177.202.427đồng. Trong đó số tiền gốc đã trả là 120.948.380đồng, số tiền lãi trong hạn đã trả là 54.819.959đồng và số tiền lãi quá hạn đã trả là 1.434.088đồng.

Sau khi phát sinh nợ quá hạn, Ngân hàng đã nhiều lần đôn đốc, nhắc nhở anh Nguyễn Văn Ch thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng. Tuy nhiên, anh Ch đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Ngân hàng.

Nay Ngân hàng TMCP QTVN yêu cầu Tòa án buộc anh Nguyễn Văn Ch phải thanh toán trả cho Ngân hàng toàn bộ khoản nợ với tổng số tiền tính đến ngày 28 tháng 02 năm 2020 là 200.249.973đồng. Trong đó, nợ gốc là 129.051.620đồng, nợ lãi trong hạn là 23.056.546đồng, nợ lãi quá hạn là 48.141.807đồng.

Buộc anh Nguyễn Văn Ch phải tiếp tục trả cho Ngân hàng TMCP QTVN các khoản lãi, lãi quá hạn phát sinh theo đúng quy định tại hợp đồng tín dụng đã ký cho đến ngày anh Nguyễn Văn Ch thanh toán toàn bộ khoản vay.

Trong trường hợp anh Nguyễn Văn Ch không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng TMCP QTVN thì đề nghị Tòa án tuyên Ngân hàng TMCP QTVN được quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền kê biên, phát mãi tài sản thế chấp cho khoản vay để xử lý, thu hồi nợ tài sản gồm: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 144 (1), tờ bản đồ số 8, có diện tích 140m2, địa chỉ ở thôn Th, xã HL, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất số W 236618 đã được Uỷ ban nhân dân huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc cấp ngày 12/12/2002, vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02382 QSDĐ/1064/QĐ-UB cấp cho hộ bà Nguyễn Thị T.

Trường hợp số tiền thu được từ việc phát mãi tài sản bảo đảm không đủ thanh toán hết khoản nợ thì đề nghị Tòa án tuyên anh Nguyễn Văn Ch phải có nghĩa vụ trả hết nợ cho Ngân hàng TMCP QTVN.

- Bị đơn đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị T là anh Nguyễn Văn Ch trình bày: Về thời gian ký kết hợp đồng, mục đích vay, phương thức cho vay, số tiền vay, lãi suất trong hạn, lãi suất quá hạn, thời hạn cho vay, tài sản đảm bảo, số tiền lãi trong hạn, số tiền lãi quá hạn đã trả, số tiền gốc, số tiền lãi trong hạn, số tiền lãi quá hạn chưa trả như người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng TMCP QTVN trình bày là đúng. Nay quan điểm của anh đồng ý với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng nhưng do kinh tế khó khăn, thu nhập không ổn định nên anh đề nghị được trả toàn bộ số tiền nợ gốc cho Ngân hàng vào tháng 5 năm 2020 và xin được miễn toàn bộ tiền nợ lãi trong hạn, tiền nợ lãi quá hạn.

Trong trường hợp anh không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thì đề nghị cơ quan có thẩm quyền kê biên, phát mãi tài sản thế chấp cho khoản vay để xử lý, thu hồi nợ tài sản gồm: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 144 (1), tờ bản đồ số 8, có diện tích 140m2, địa chỉ ở thôn Th, xã HL, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất số W 236618 đã được Uỷ ban nhân dân huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc cấp ngày 12/12/2002, vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02382 QSDĐ/1064/QĐ-UB cấp cho hộ bà Nguyễn Thị T, theo quy định của pháp luật.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn Th và chị Đỗ Thị Đ mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, các giấy triệu tập của Tòa án, được Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Tuy nhiên, anh Nguyễn Văn Th và chị Đỗ Thị Đ đều vắng mặt không có lý do, nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của anh Th, chị Đ cũng như việc tiến hành hòa giải vụ án theo quy định của pháp luật được. Anh Th, chị Đ không có yêu cầu độc lập, cũng như không có ý kiến gì liên quan đến chứng cứ do nguyên đơn cung cấp. Tòa án tiếp tục xem xét giải quyết vụ án theo thủ tục chung đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP QTVN.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Quá trình giải quyết vụ án thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử đã tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. Những người tham gia tố tụng như nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng theo quy định pháp luật. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không chấp hành các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về quyền và nghĩa vụ của đương sự. Về giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 91, 95, 98 Luật các tổ chức tín dụng, Điều 280, 463 Bộ luật dân sự, Nghị quyết 326 về án phí, lệ phí Tòa án, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng TMCP QTVN, buộc anh Nguyễn Văn Ch thanh toán trả cho Ngân hàng TMCP QTVN tổng số tiền tính đến ngày 28 tháng 02 năm 2020 là 200.249.973đồng. Trong đó, nợ gốc là 129.051.620đồng, nợ lãi trong hạn là 23.056.546đồng, nợ lãi quá hạn là 48.141.807đồng và số tiền lãi quá hạn còn tiếp tục phát sinh từ ngày 28 tháng 02 năm 2020 đến khi trả xong toàn bộ nợ. Trường hợp anh Nguyễn Văn Ch không thanh toán được số tiền trên cho Ngân hàng, Ngân hàng có quyền đề nghị cơ quan thi hành án xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật. Nếu số tiền thu được từ việc phát mại tài sản bảo đảm không đủ để thu hồi nợ, anh Nguyễn Văn Ch vẫn phải có nghĩa vụ trả nợ gốc và nợ lãi phát sinh cho Ngân hàng theo lãi suất nợ quá hạn đã nêu trong Hợp đồng tín dụng số 018CN554.HĐTD.14/VIB ngày 22 tháng 11 năm 2014 cho đến khi trả xong nợ bằng các nguồn thu và tài sản khác của mình.

Về án phí: Anh Nguyễn Văn Ch phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Đây là vụ án “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng” giữa Ngân hàng TMCP QTVN với anh Nguyễn Văn Ch theo quy định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[2] Về tố tụng: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn Th và chị Đỗ Thị Đ đã được Tòa án triệu tập, thông báo hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa án làm việc thuộc trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình vắng mặt theo quy định tại Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự. Nên Tòa án đã thực hiện các thủ tục niêm yết công khai về việc cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng và tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ mà không tiến hành hòa giải theo quy định tại khoản 2 Điều 208 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về sự vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tại phiên tòa: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị T có mặt tại phiên tòa nhưng đã ủy quyền tham gia tố tụng cho bị đơn là anh Nguyễn Văn Ch. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn Th và chị Đỗ Thị Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần nhưng vắng mặt không có lý do, vì vậy căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[4] Về nội dung: Xét yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP QTVN thấy rằng giữa Ngân hàng TMCP QTVN với anh Nguyễn Văn Ch đã ký kết Hợp đồng tín dụng số 018CN554.HĐTD.14/VIB ngày 22 tháng 11 năm 2014 số tiền đã giải ngân là 250.000.000đồng (Hai trăm năm mươi triệu đồng) theo Đơn đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 018CN554.14.KU1/VIB ngày 22 tháng 11 năm 2014là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp pháp luật. Thời gian ký kết hợp đồng, mục đích vay, phương thức cho vay, số tiền vay, lãi suất trong hạn, lãi suất quá hạn, thời hạn cho vay, tài sản đảm bảo của hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp phản ánh đúng như người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, bị đơn trình bày tại phiên tòa. Theo hợp đồng đã ký thì các bên phải thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình như các điều khoản đã được thỏa thuận trong hợp đồng.

Xét hợp đồng tín dụng, đơn đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ giữa Ngân hàng TMCP QTVN với anh Nguyễn Văn Ch và hợp đồng thế chấp tài sản đảm bảo cho việc vay vốn các bên đã tiến hành ký kết theo đúng trình tự, thủ tục và được công chứng theo quy định của pháp luật. Các hợp đồng trên là hợp pháp để các bên thực hiện. Tuy nhiên sau khi ký hợp đồng vay vốn của Ngân hàng TMCP QTVN thì đến nay anh Nguyễn Văn Ch mới trả được cho Ngân hàng số tiền là 177.202.427đồng. Trong đó số tiền gốc đã trả là 120.948.380đồng, số tiền lãi trong hạn đã trả là 54.819.959đồng và số tiền lãi quá hạn đã trả là 1.434.088đồng. Đến nay đã quá thời hạn trả nợ theo cam kết trong hợp đồng vay, anh Nguyễn Văn Ch đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ, lỗi hoàn toàn thuộc về anh Nguyễn Văn Ch. Nay Ngân hàng TMCP QTVN yêu cầu anh Nguyễn Văn Ch trả nợ cho Ngân hàng tiền gốc, tiền lãi trong hạn, tiền lãi quá hạn, tiền lãi tiếp tục phát sinh như đã yêu cầu là phù hợp, có cơ sở để chấp nhận.

Về tài sản bảo đảm cho việc anh Nguyễn Văn Ch vay vốn ký Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất/ tài sản gắn liền với đất số 554.14.HĐTC.BĐ/VIB ngày 20 tháng 11 năm 2014, được các bên ký kết gồm bên nhận thế chấp Ngân hàng TMCP QTVN với bên thế chấp là bà Nguyễn Thị T, anh Nguyễn Văn Ch, anh Nguyễn Văn Th, chị Nguyễn Thị Đ và bên vay anh Nguyễn Văn Ch. Hợp đồng được công chứng theo quy định của pháp luật. Tài sản thế chấp được phản ánh như đại diện của nguyên đơn, bị đơn trình bày tại phiên tòa. Tại khoản 9.1 Điều 9 của hợp đồng thế chấp ngày 20 tháng 11 năm 2014 về sự kiện vi phạm các bên thỏa thuận về xử lý tài sản thế chấp: “Bên B bị coi là đã vi phạm các điều khoản của hợp đồng này nếu bất kỳ sự kiện nào dưới đây xảy ra và không được khắc phục trong khoảng thời gian hợp lý được bên A ấn định”. Tại khoản 9.1.2 Điều 9 của hợp đồng thế chấp ngày 20 tháng 11 năm 2014 quy định: “Bên C và/hoặc bên B không thực hiện hoặc thực hiện không đúng bất kỳ điều khoản nào của hợp đồng tín dụng và/hoặc hợp đồng này; hoặc”.

Như vậy, việc Ngân hàng TMCP QTVN đề nghị xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất khi anh Ch không trả được nợ cho Ngân hàng là có căn cứ, được chấp nhận. Nếu số tiền thu được từ việc xử lý tài sản thế chấp không đủ để thu hồi nợ, anh Nguyễn Văn Ch vẫn phải có nghĩa vụ trả nợ gốc và nợ lãi phát sinh cho Ngân hàng cho đến khi trả xong nợ bằng các nguồn thu và tài sản khác của mình.

Quá trình giải quyết vụ án, anh Nguyễn Văn Ch đề nghị được trả toàn bộ số tiền nợ gốc cho Ngân hàng vào tháng 5 năm 2020 và xin được miễn toàn bộ tiền nợ lãi trong hạn, tiền nợ lãi quá hạn. Hội đồng xét xử thấy rằng về phương thức và thời gian trả nợ do các bên thoả thuận, đại diện Ngân hàng TMCP QTVN không đồng ý với quan điểm của anh Nguyễn Văn Ch. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng TMCP QTVN buộc anh Nguyễn Văn Ch phải thanh toán trả cho Ngân hàng TMCP QTVN tổng số tiền tính đến ngày 28 tháng 02 năm 2020 là 200.249.973đồng. Trong đó, nợ gốc là 129.051.620đồng, nợ lãi trong hạn là 23.056.546đồng, nợ lãi quá hạn là 48.141.807đồng và số tiền lãi quá hạn phát sinh trên số dư nợ gốc tính từ ngày 28 tháng 02 năm 2020 cho đến khi thanh toán xong nợ.

[5] Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa về việc giải quyết vụ án là có căn cứ, được xem xét khi quyết định.

[6] Về chi phí tố tụng: Ngân hàng TMCP QTVN không chấp nhận nộp toàn bộ số tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ. Theo quy định của pháp luật, anh Nguyễn Văn Ch phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ mà Ngân hàng TMCP QTVN đã nộp số tiền là 500.000đồng (Năm trăm nghìn đồng) để hoàn trả lại cho Ngân hàng TMCP QTVN.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Nguyễn Văn Ch phải chịu án phí có giá ngạch đối với giá trị tài sản có tranh chấp là 200.249.973đồng x 5% = 10.012.499đồng (Làm tròn 10.012.000đồng). Ngân hàng TMCP QTVN không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nên được hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điều 91, 95, 98 của Luật các tổ chức tín dụng; Điều 280, 317, 318 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về án phí, lệ phí Toà án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP QTVN đối với anh Nguyễn Văn Ch.

1. Buộc anh Nguyễn Văn Ch phải thanh toán trả cho Ngân hàng TMCP QTVN tính đến ngày 28 tháng 02 năm 2020 tổng số tiền là 200.249.973đồng (Hai trăm triệu hai trăm bốn chín nghìn chín trăm bảy ba đồng). Trong đó, nợ gốc là 129.051.620đồng, nợ lãi trong hạn là 23.056.546đồng, nợ lãi quá hạn là 48.141.807đồng.

Anh Nguyễn Văn Ch còn phải tiếp tục trả tiền lãi quá hạn phát sinh trên số dư nợ gốc tính từ ngày 28 tháng 02 năm 2020 cho đến khi thanh toán xong nợ. Lãi suất được tính theo Hợp đồng tín dụng số 018CN554.HĐTD.14/VIB ngày 22 tháng 11 năm 2014 và Đơn đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 018CN554.14.KU1/VIB ngày 22 tháng 11 năm 2014.

Trường hợp anh Nguyễn Văn Ch không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ nêu trên và lãi phát sinh thì Ngân hàng TMCP QTVN có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tiến hành kê biên, phát mại toàn bộ tài sản bảo đảm của khoản vay để thu hồi nợ cho Ngân hàng. Tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 144 (1), tờ bản đồ số 8, có diện tích 140m2, địa chỉ ở thôn Th, xã HL, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất số W 236618, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02382 QSDĐ/1064/QĐ-UB đã được Uỷ ban nhân dân huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc cấp ngày 12/12/2002 cho hộ bà Nguyễn Thị T. Thực hiện theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất/ tài sản gắn liền với đất số 554.14.HĐTC.BĐ/VIB ngày 20 tháng 11 năm 2014, được công chứng số 4766/2014/HĐTC, quyển số 06/TP/CC – SCC/HĐGD ngày 20 tháng 11 năm 2014 để thu hồi nợ. Nếu số tiền thu được từ quá trình phát mại tài sản bảo đảm không đủ để thu hồi nợ, anh Nguyễn Văn Ch vẫn phải có nghĩa vụ trả nợ gốc và nợ lãi phát sinh cho Ngân hàng cho đến khi trả xong nợ bằng các nguồn thu và tài sản khác của mình.

2. Về chi phí tố tụng: Anh Nguyễn Văn Ch phải chịu toàn bộ tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 500.000đồng (Năm trăm nghìn đồng) để hoàn trả lại cho Ngân hàng TMCP QTVN.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Nguyễn Văn Ch phải chịu 10.012.000đồng (Mười triệu không trăm mười hai nghìn đồng).

Hoàn trả Ngân hàng TMCP QTVN 4.623.000đồng (Bốn triệu sáu trăm hai mươi ba nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số AA/2017/0002918 ngày 10 tháng 10 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2020/KDTM-ST ngày 28/02/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:02/2020/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Dương - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 28/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về