Bản án 02/2020/KDTM-ST ngày 10/09/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH A, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 02/2020/KDTM-ST NGÀY 10/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN

Trong ngày 10 tháng 9 năm 2020 tại Tòa án nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 08/2019/TLST- KDTM ngày 25 tháng 11 năm 2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 87/2020/QĐXX-ST ngày 20 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: CT HDMB Địa chỉ: Số 212/170/66, Nguyễn Văn Nguyễn, Phường Tân Định, Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh Người đại diện theo pháp luật: Bà Đ – Chức vụ giám đốc Người đại diện theo ủy quyền: Ông T Địa chỉ: Số 58, Hùng Vương, Phường Thới Bình, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ, theo văn bản ủy quyền ngày 18 tháng 11 năm 2019.

2. Bị đơn: Công ty TNHH Thương mại dịch vụ dầu khí Vĩnh Tường Địa chỉ: Ấp Tân Phú, thị trấn Cái Tắc, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang.

- Người đại diện theo pháp luật: Ông H trú tại số 19, đường số 27, khu nâng cấp đô thị, khu vực 4, phường An kháng, quận Ninh Kiều, TP.Cần Thơ.

- Đại diện vốn góp theo cam kết ủy quyền của Công ty TNHH Thương mại dịch vụ Dầu khí VT- Ông Nguyễn Huỳnh Đức Địa chỉ: Số 454, Cao Thắng, phường 12, quận 10, TP.Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và quá trình tố tụng tại Tòa án người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông T trình bày: CT HDMB (được viết tắt là Công ty HDMB) gọi là bên B và Công ty TNHH thương mại dịch vụ dầu khí VT(được viết tắt là Công ty Vĩnh Tường) gọi là bên A ký kết hợp đồng mua bán số 30/12/2016/HDMB/VT-HDMB với nội dung bên A và bên B đồng ý cùng nhau hợp tác kinh doanh các mặt hàng xăng dầu gồm: Xăng, dầu Diesel, dầu Mazut (FO) dựa trên khả năng về tài chính và hệ thống mạng lưới sẵn có của các bên. Hình thức thanh toán bằng chuyển khoản qua Ngân hàng của các bên cung cấp cấn trừ công nợ theo biên bản thỏa thuận. Thời hạn thanh toán là 40 ngày kể từ ngày nhận hàng nếu các bên được Ngân hàng bảo lãnh và là 30 ngày kể từ ngày nhận hàng nếu không được Ngân hàng bảo lãnh. Bên A và bên B có thể áp dụng việc thanh toán nếu bên A là người mua và ngược lại. Hợp đồng có hiệu lực từ ngày 30/12/2016 cho đến hết ngày 31/12/2020. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty VT đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Cụ thể, đối chiếu công nợ tính đến tháng 11 năm 2019, Công ty VT còn nợ Công ty HDMB số tiền gốc là 46.050.200.000 đồng. Công ty VT đã ký văn bản xác nhận công nợ và hứa hẹn trả nợ vào các ngày 10/8/2018, 18/8/2018, 19/8/2018, 04/10/2018, 19/9/2018, ngày 17/11/2018 và ngày 06/12/2018. Công ty HDMB đã nhiều lần nhắc nhở nhưng Công ty VT vẫn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Do đó công ty HDMB, yêu cầu Tòa án buộc Công ty VT thanh toán phần tiền còn nợ gốc tổng cộng là 46.050.200.000 đồng.

Quá trình tố tụng tại Tòa án, Công ty VT không có mặt, cũng không có ý kiến đối với việc yêu cầu đòi nợ theo hợp đồng mua bán của Công ty HDMB. Tòa án đã thực hiện các thủ tục thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng như đã niêm yết các thủ tục tại trụ sở của Công ty nhưng vẫn không nhận được ý kiến phản hồi của người đại diện theo pháp luật của công ty cũng như thành viên vốn góp.

Tại phiên tòa, đại diện cho Công ty HDMB vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện Công ty VT phải hoàn trả tổng số tiền nợ gốc là 46.050.200.000 đồng và không yêu cầu tính lãi. Đối với phần hợp đồng ủy quyền của Công ty VT cho Công ty HDMB đối với phần đất tại khu Đô thị Hưng Phú đã được thụ lý giải quyết bằng một vụ án dân sự khác nên không yêu cầu giải quyết trong vụ kiện này.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định pháp luật; nguyên đơn chấp hành tốt quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt tại nơi cư trú, tòa án đã thực hiện việc thông báo trên các phương tiện, thông tin đại chúng và niêm yết công khai nhưng bị đơn vẫn vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227 xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định pháp luật.

Về nội dung vụ án: Qua những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã thể hiện việc Công ty VT có thiếu nợ Công ty HDMB số tiền nợ gốc là 46.050.200.000 đồng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ tại khoản 8 Điều 3, Điều 24 và Điều 50 của Luật thương mại chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bị đơn phải trả cho Công ty HDMB tổng số tiền nợ gốc là 46.050.200.000 đồng. Về phần lãi do Công ty HDMB không yêu cầu nên không đặt ra xem xét Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị đơn phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Chi phí tố tụng khác đề nghị buộc đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử XÉT THẤY

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Công ty VT có trụ sở tại ấp Tân Phú, thị trấn Cái Tắc, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. Trong quá trình hoạt động, Công ty VT có giao dịch mua bán và ký kết hợp đồng hợp tác với Công ty HDMB kinh doanh các mặt hàng xăng, dầu. Do Công ty VT đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán đối với Công ty HDMB nên Công ty HDMB đã khởi kiện yêu cầu Tòa án huyện Châu Thành A giải quyết buộc Công ty VT thanh toán khoản nợ mà hai bên đã đối chiếu công nợ với tổng số tiền là 46.050.200.000 đồng. Xét đây là vụ án kinh doanh thương mại tranh chấp hợp đồng mua bán thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành A theo quy định tại khoản 1 Điều 30, khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng:

Tại phiên tòa và trong suốt quá trình tố tụng, đại diện theo pháp luật của bị đơn Công ty VT là ông H vắng mặt. Qua xác minh tại nơi cư trú của người đại diện theo pháp luật cũng như tại trụ sở của công ty, được biết hiện tại ông H đã không còn ở tại nơi cư trú, đi đâu làm gì chính quyền địa phương không rõ, trụ sở của Công ty đã ngưng hoạt động một thời gian dài. Tòa án đã thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết công khai các văn bản tố tụng, giấy triệu tập của Tòa án đối với bị đơn nhưng bị đơn vẫn vắng mặt, thành viên góp vốn còn lại của Công ty là ông Nguyễn Huỳnh Đức cũng không có ý kiến phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Xét về tư cách tham gia tố tụng, sau khi đã làm đầy đủ các thủ tục theo quy định, Tòa án nhận được Quyết định truy nã bị can số 02/QĐ -PC03 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hậu Giang đối với ông H do ông Hưng bị khởi tố với tội danh “Trốn thuế”, hiện ông Hưng đã bỏ trốn khỏi địa phương. Do Công ty VT là Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên nên căn cứ vào khoản 6 Điều 13 Luật Doanh nghiệp Tòa án đã triệu tập ông Nguyễn Huỳnh Đức là thành viên góp vốn còn lại của Công ty tham gia tố tụng để xác định tư cách là người đại diện theo pháp luật của Công ty Vĩnh Tường. Tuy nhiên ông Đức cũng không tham dự phiên tòa cũng không có ý kiến đối với việc khởi kiện của Công ty HDMB.Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.

[3] Về nội dung vụ án [3.1] Xét yêu cầu khởi kiện của Công ty HDMB đối với Công ty Vĩnh Tường: Qua các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện người đại diện theo pháp luật của Công ty VT đã ký vào Biên bản xác nhận công nợ ngày 10 tháng 8 năm 2018 (BL:18) với số tiền xác nhận còn thiếu nợ của Công ty HDMB là 46.050.200.000 đồng. Ngoài ra, ngày 18 tháng 8 năm 2018, Công ty VT còn ký Bản kế hoạch trả nợ cho Công ty HDMB cụ thể như sau: Từ ngày 20/8/2018 đến ngày 27/8/2018 trả trên dưới số tiền là 30.000.000.000 đồng; kể từ ngày 28/8/2018 đến tháng 18/9/2018 sẽ trả hết số nợ còn lại. (BL 16). Ngoài ra, đại diện theo pháp luật của Công ty VT còn ký vào nhiều biên bản cam kết trả nợ khác.

Như vậy đã có đầy đủ chứng cứ để chứng minh Công ty VT còn thiếu 46.050.200.000 đồng theo hợp đồng mua bán mà hai bên đã thỏa thuận. Đến thời điểm Tòa án mở phiên tòa sơ thẩm, phí a Công ty VT chưa cung cấp được chứng cứ nào chứng minh đã trả toàn bộ hay một phần nợ cho Công ty HDMB. Mặt khác, Công ty VT không đến tham dự phiên hòa giải và công bố công khai chứng cứ để trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án đã thực hiện thủ tục niêm yết và thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng các văn bản như Thông báo thụ lý vụ án, niêm yết đầy đủ các thủ tục tiếp theo nhưng phía Công ty vẫn không có ý kiến phản hồi. Ngoài ra, Tòa án cũng đã gửi kết quả công bố công khai chứng cứ và triệu tập đến Tòa án đối với ông Nguyễn Huỳnh Đức thành viên góp vốn của Công ty VT nhưng về phía ông Nguyễn Huỳnh Đức cũng không có ý kiến về việc Công ty HDMB khởi kiện yêu cầu hoàn trả số tiền nêu trên.

Từ những phân tích nêu trên, có đủ căn cứ để chứng minh việc Công ty VT còn thiếu nợ Công ty HDMB số tiền 46.050.200 đồng. Do đó, có cơ sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty HDMB, buộc Công ty VT phải hoàn trả số tiền nợ gốc theo hợp đồng hợp tác số 30 ngày 30/12/2016 cho Công ty HDMB là 46.050.200.000 đồng.

[3.2] Đối với phần tiền lãi: Căn cứ theo hợp đồng hợp tác giữa hai bên có thỏa thuận phần tiền lãi chậm thanh toán. Tuy nhiên, trong đơn khởi kiện cũng như tại phiên tòa, Công ty HDMB không yêu cầu tính lãi đối với số tiền 46.050.200 đồng mà Công ty VT còn thiếu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3.3] Về chi phí tố tụng: Đối với số tiền đăng báo và phát trên truyền hình 3 kỳ liên tiếp tổng cộng là 2.436.000 đồng Công ty HDMB phải chịu theo quy định tại Điều 180 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3.4] Vế án phí kinh doanh thương mại: Công ty VT có nghĩa vụ thanh toán nợ cho Công ty HDMB nên Công ty VT phải chịu phần án phí kinh doanh thương mại có giá ngạch theo quy định của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội án phí được tính như sau: Do phần tranh chấp là trên 4.000.000.000 đồng nên án phí được xác định bằng 112.000.000 đồng  +  (0,1%x  42.050.200.000 đồng  phần  giá  trị  vượt 4.000.000.000 đồng) = 154.050.200 đồng.

[4] Đối với đơn yêu cầu áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời của Công ty HDMB với phần đất mà Công ty VT ủy quyền cho Công ty HDMB theo Hợp đồng ủy quyền ngày 17 tháng 9 năm 2018 (BL 71). Vụ việc này đang được Tòa án nhân dân huyện Châu Thành A thụ lý giải quyết bằng một vụ án dân sự tranh chấp về Hợp đồng ủy quyền do Tòa án nhân dân Quận Cái Răng chuyển đến nên trong vụ án kinh doanh thương mại này Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết Hợp đồng ủy quyền giữa Công ty TNHH thương mại dầu khí VT với CT HDMB trong vụ kiện này.

[5] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhận dân huyện Châu Thành A là có căn cứ đúng pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm b, khoản 1 Điều 35, Điêu 147, Điều 180, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Áp dụng các Điều 50, Điều 54, Điều 55 của Luật Thương mại; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn CT HDMB.

2. Buộc Công ty TNHH thương mại dầu khí VT phải trả cho CT HDMB tổng số tiền nợ gốc là 46.050.200.000 đồng (Bốn mươi sáu tỷ không trăm năm mươi triệu hai trăm ngàn đồng).

Kể từ ngày CT HDMB có đơn yêu cầu thi hành án nếu Công ty TNHH thương mại dầu khí VT chậm trả số tiền nợ gốc nêu trên thì hàng tháng Công ty TNHH thương mại dầu khí VTcòn phải chịu lãi suất do chậm thi hành nghĩa vụ theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015 kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm trên phần nợ gốc chưa thanh toán.

3. Về các chi phí tố tụng khác: Chi phí đăng thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng là 2.436.000 đồng CT HDMB phải chịu. Công ty HDMB đã thực hiện xong.

4.Về án phí: Công ty TNHH thương mại dầu khí VT phải chịu phần án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 154.050.200 đồng (Một trăm năm bốn triệu không trăm năm mươi ngàn hai trăm đồng); Công ty HDMB được nhận lại tiền tạm ứng án phí là 77.025.100 đồng (Bảy mươi bảy triệu không trăm hai mươi lăm ngàn một trăm đồng) theo Biên lai thu số 0002044 ngày 18 tháng 11 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành A.

5. Quyền kháng cáo: Công ty HDMB được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Công ty VT được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật

6. Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

524
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2020/KDTM-ST ngày 10/09/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán

Số hiệu:02/2020/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành A - Hậu Giang
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 10/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về