Bản án 02/2020/HS-ST ngày 21/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 02/2020/HS-ST NGÀY 21/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21/02/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 02/2020/TLST-HS, ngày 08 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2020/QĐXXST- HS ngày 06 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo:

Đinh Bảo L (Tên gọi khác: không); Sinh ngày: 05/10/1991; Giới tính: nam; Đăng ký thường trú: số A, C, khóm B, phường H, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng; Chỗ ở hiện nay: số A, B, khóm C, phường D, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ học vấn: 7/12; Họ và tên Cha: Đinh Công Q, sinh năm 1957 (sống); Họ và tên Mẹ: Phan Thị Ngọc A, sinh năm 1957 (chết); Bị cáo có 09 anh chị em ruột, lớn nhất sinh năm1976, nhỏ nhất là bị cáo sinh năm 1991; Họ tên vợ: Trần Thị Hồng N, sinh năm 1993 (sống); Bị cáo có 01 người con tên Đinh Bảo N, sinh năm 2014; Tiền án: có 01 tiền án, theo bản án số 72/2011/HSST ngày 29/9/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xử phạt Đinh Bảo L về tội Trộm cắp tài sản được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2011, tuyên xử Đinh Bảo L 09 tháng tù bị cáo Đinh Bảo L đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/4/2012 và đã được xóa án tích; Tiền sự: Không có.

Bị cáo Đinh Bảo L đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 04 tháng 11 năm 2019 đến nay (có mặt).

* Bị hại:Phan Thanh H; Sinh năm 1982; Nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Đinh Bảo N; Sinh năm 1990; Nơi cư trú: Số A đường C, khóm B, phường D, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

- Trần Đại C; Sinh năm 1996; Nơi cư trú: Đường C, khóm A, phường B, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu. Chổ ở hiện nay: Số A đường C, khóm B, phường D, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

- Dương Thu T; Sinh năm 1996; Nơi cư trú: Số A đường B, khóm C, phường D, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu (có mặt).

* Người làm chứng:

- Nguyễn Văn T; Sinh năm 1970; Nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

- Phan Thanh Đ; Sinh năm 1985; Nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

- Phan Thanh T; Sinh năm 1975; Nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

- Phan Thanh H; Sinh năm 1990; Nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23 giờ 30 phút, ngày 02/7/2019, Đinh Bảo L, đang ở nhà trọ đường Đ, phường A, thành phố Sóc Trăng thì có người bạn tên Đ (không rõ địa chỉ) điện thoại kêu L chạy xe qua nhà nghỉ N (gần khu dân cư A, đường T, phường B, thành phố Sóc Trăng) chở Đ đi chơi. Sau đó L mượn xe mô tô biển số 94K1- 559.55 của chị ruột tên là N rồi chạy đến trước cổng nhà nghỉ N chở Đ ra chợ M, thành phố Sóc Trăng để uống cà phê. Trong lúc ngồi uống cà phê thì Đ rủ L “đi kiếm sống” có nghĩa là rủ đi trộm cắp tài sản để lấy tiền tiêu xài thì L đồng ý, nên L điều khiển xe chở Đ đi từ chợ M qua T, rồi quay qua xã T, đến cầu M, quay về cầu L, rẽ trái vào lộ đal nông thôn thuộc khu vực ấp T, xã T thì Đ ngồi sau phát hiện 01 (một) chiếc xe mô tô Wave mang biển số 83P2-609.28 đang đậu trước hàng ba nhà không có người trông coi, Đ liền kêu L dừng lại trên lộ đal cách vị trí xe Wave khoảng 15 mét, L tắt máy ngồi trên xe chờ. Còn Đ thì bước xuống xe đi vô hàng ba để lấy chiếc xe. Khoảng 10 phút sau thì Đ lấy được chiếc xe rồi nổ máy xe chạy ra lộ đal và kêu L cùng chạy. Đ điều khiển xe Wave vừa lấy được chạy trước còn L điều khiển xe 94K1- 559.55 chạy phía sau. Anh Phan Thanh H là chủ chiếc xe phát hiện mất xe nên truy hô và cùng mọi người đuổi theo Đ và L. Sau đó, L bị anh H và người dân bắt giữ, tạm giữ xe mô tô 94K1- 559.55 và thu hồi lại được xe mô tô Wave 83P2-609.28 còn người tên Đ thì chạy thoát. Vụ việc được anh H trình báo với công an đến và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với L.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 10/HĐĐGTS, ngày 12/7/2019 của Hội đồng Định giá tài sản UBND huyện Trần Đề, kết luận: Giá trị thành tiền của chiếc xe mô tô biển số 83P2-609.28 là 17.150.000 đồng.

Về vật chứng vụ án được cơ quan điều tra công an huyện Trần Đề thu giữ và xử lý: + Một chiếc xe mô tô biển số 94K1- 559.55, xe có đặc điểm như sau: loại xe WINNER, nhãn hiệu HONDA, màu sơn đỏ - đen; Một cái quần Jean dài (nam), quần được làm bằng vải coton, màu xanh dương, kích cỡ quần size 30 (hiện nay do Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Đề quản lý).

+ Một chiếc xe mô tô biển số 83P2-609.28. Xe có đặc điểm như sau: loại xe WAVE RSX, nhãn hiệu HONDA, màu sơn đỏ - đen. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trần Đề đã trả lại tài sản là chiếc xe mô tô biển số 83P2-609.28 cho bị hại.

Về phần trách nhiệm dân sự: Bị hại Phan Thanh H đã nhận lại tài sản của mình là chiếc xe mô tô biển số 83P2-609.28, ngoài ra bị hại H không yêu cầu gì khác.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đinh Bảo L khai nhận: Vào đêm ngày 02/7/2019 rạng sáng ngày 03/7/2019 bị cáo cùng với Đ điều khiển chiếc xe biển số 94K1- 559.55 đi tìm tài sản để trộm khi đến khu vực ấp T, xã T thì phát hiện 01 (một) chiếc xe mô tô Wave mang biển số 83P2-609.28 đang đậu trước hàng ba nhà không có người trông coi, nên bị cáo và Đ dừng xe lại trên lộ đal cách vị trí xe Wave khoảng 15 mét, bị cáo tắt máy ngồi trên xe chờ. Còn Đ thì bước xuống xe đi vô hàng ba để trộm chiếc xe. Khoảng 10 phút sau thì Đ lấy được chiếc xe rồi nổ máy xe chạy ra lộ đal và kêu bị cáo cùng chạy. Đ điều khiển xe Wave vừa trộm được chạy trước còn bị cáo điều khiển xe 94K1- 559.55 chạy phía sau. Sau đó chủ chiếc xe phát hiện mất xe nên truy hô và cùng mọi người đuổi theo bắt được bị cáo cùng xe vừa trộm được, còn Đ thì chạy thoát và bị cáo cũng không biết Đ nhà ở đâu vì chỉ mới quen. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị hại Phan Thanh H trình bày: Khoảng 03 giờ ngày 03/7/2019 ông chạy xe mô tô biển số 83P2-609.28 đi lấy bánh mì về bán khi lấy về nhà khoảng 04 giờ nên ông để xe trước nhà và đi ra sau khoảng 04 giờ 30 phút ông nghe tiếng xe nổ ở phía trước nên ông đi ra thì thấy người thanh niên lấy xe của ông chạy đi nên ông la lên và cùng một số anh em truy đuổi và bắt được bị cáo cùng với chiếc xe và một người khác đi chung bị cáo chạy thoát. Do ông đã nhận lại xe nên ông không yêu cầu bồi thường thêm khoản nào khác.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bà Đinh Bảo N trình bày: Vào tối ngày 02/7/2019 bị cáo L có điện hỏi mượn chiếc xe biển số 94K1- 559.55 đi ra chợ M nên bà đồng ý, bà không biết việc L lấy xe đi trộm tài sản, chiếc xe trên do Dương Thu T đứng tên.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa ông Trần Đại C trình bày: Người đứng tên chiếc xe biển số 94K1- 559.55 là Dương Thu T, do thời gian trước ông và bà T sống như vợ chồng nên khi mua xe thỏa thuận cho bà T đứng tên, khi ông và bà T chia tay thì thỏa thuận ông lấy chiếc xe nhưng chưa sang tên lại. Vào đêm 02/7/2019 ông đi thành phố Hồ Chí Minh, việc L mượn xe đi trộm cắp tài sản ông không biết.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bà Dương Thu T trình bày: Chiếc xe biển số 94K1- 559.55 do bà và ông C cùng đứng ra mua khi còn sống chung nhưng khi chia tay thì C lấy chiếc xe, việc L lấy chiếc xe đi trộm cắp bà không biết.

Trong quá trình điều tra người làm chứng ông Nguyễn Văn T trình bày: Vào khoảng hơn 04 giờ ngày 03/7/2019 khi ông đang ở nhà thì nghe tiếng em vợ là Phan Thanh H la “nó lấy xe rồi” nên ông lấy xe ra và H chở ông đuổi theo tên ăn trộm. Khi đến địa phận ấp T gặp hai thanh niên trộm xe và họ bỏ chạy nên chỉ bắt được một người.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa người làm chứng ông Phan Văn Đ trình bày: Vào khoảng hơn 04 giờ ngày 03/7/2019 khi ông đang ở nhà thì nghe tiếng H bị trộm xe nên ông lấy xe chạy ra thì gặp H, T cùng đuổi theo tên trộm. Khi đến địa phận ấp T gặp hai thanh niên trộm xe và bắt được một người.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa người làm chứng ông Phan Thanh T trình bày: Vào khoảng hơn 04 giờ ngày 03/7/2019 khi ông đang ở nhà thì nghe tiếng H bị trộm xe nên ông đi bộ qua nhà H để xem một lúc sau thì H, Đ cùng đến nên H điều khiển xe chở ông và Đ đuổi theo thì phát hiện hai thanh niên nhưng họ bỏ xe chạy theo hai hướng nên chỉ bắt được một người.

Trong quá trình điều tra người làm chứng ông Phan Thanh H trình bày: Vào khoảng hơn 04 giờ ngày 03/7/2019 khi ông hay tin H mất xe nên ông đi bộ ra trước nhà một lúc sau Đ chạy xe đến chở ông đến nhà H thì gặp T nên cùng nhau rượt tên ăn trộm khi đến địa phận ấp T thì phát hiện hai thanh niên nhưng họ bỏ xe chạy theo hai hướng nên chỉ bắt được một người.

Tại Cáo trạng số 04/CT-VKSTĐ ngày 06/01/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng để xét xử đối với bị cáo Đinh Bảo L tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề luận tội đối với bị cáo Đinh Bảo L tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố:

- Bị cáo Đinh Bảo L phạm tội “ Trộm cắp tài sản” và áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và xử phạt bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù.

Nói lời sau cùng tại phiên tòa, bị cáo Đinh Bảo L xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Trần Đề, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về sự vắng mặt của các người làm chứng Nguyễn Văn T, Phan Thanh H vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy các người làm chứng đã có lời khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra nên sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Qua xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa cho thấy: Bị cáo Đinh Bảo L đã khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát. Lời thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai trước đây của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và vụ án còn được chứng minh qua các tài liệu, chứng cứ như biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà cơ quan điều tra đã thu thập được.

[4] Bị cáo Đinh Bảo L là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng vào sáng vào ngày 03/7/2019 bị cáo cùng với Đ đã có hành vi lén lút vào trong khuôn viên nhà của bị hại để lấy chiếc xe mô tô biển kiểm soát 83P2-609.28. Do đó, hành vi do của bị cáo Đinh Bảo L thực hiện là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại trái pháp luật đến tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của công dân, đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do vậy, đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Đinh Bảo L phạm tội “ Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Tội phạm do bị cáo Đinh Bảo L thực hiện không những xâm hại đến tài sản của công dân mà còn gây mất trật tự trị an toàn xã hội. Với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng một mức án tương xứng với hành vi của bị cáo, để có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội và có tác dụng phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[6] Tuy nhiên, khi lượng hình cũng cần xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ như sau: bị cáo không có tình tiết tăng nặng; về tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo. Các tình tiết giảm nhẹ nêu trên được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[7] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trần Đề thu giữ:

[7.1] Một chiếc xe mô tô biển số 83P2-609.28. Xe có đặc điểm như sau: loại xe WAVE RSX, nhãn hiệu HONDA, màu sơn đỏ - đen. Xét thấy vật chứng thuộc sở hữu hợp pháp của bị hại Phan Thanh H nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trần Đề đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trao trả tài sản lại cho bị hại nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7.2] Một chiếc xe mô tô biển số 94K1- 559.55, xe có đặc điểm như sau: loại xe WINNER, nhãn hiệu HONDA, màu sơn đỏ - đen. Xét thấy đây là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của bà Dương Thu T (do bà Dương Thu T đứng trong giấy đăng ký), do đó cần trả lại cho chủ sở hữu theo quy định tại khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ Luật tố tụng hình sự.

[7.3] Một cái quần Jean dài (nam), quần được làm bằng vải coton, màu xanh dương, kích cỡ quần size 30. Xét thấy đây là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của bị cáo nhưng không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy, theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ Luật tố tụng hình sự

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại được tài sản và bị hại không có yêu cầu bồi thường thêm khoản nào khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[9] Đối với người thanh niên tên Đ đi cùng bị cáo L trộm cắp tài sản, cơ quan cảnh sát điều tra đã xác minh. Qua quá trình điều tra, xác minh chỉ biết tên Đ, không biết tên đầy đủ, không xác định được địa chỉ, thông tin về Đ còn quá ít nên không làm việc được, khi xác minh được sẽ xử lý sau.

[10] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy tịnh về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Đinh Bảo L chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

[11] Về quyền kháng cáo bản án: Căn cứ vào các điều 331 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; các điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Đinh Bảo L phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Đinh Bảo L 09 (chín) tháng tù, thời gian phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ Luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ Luật tố tụng hình sự.

+ Trả lại cho bà Dương Thu T: Một chiếc xe mô tô biển số 94K1- 559.55, xe có đặc điểm như sau: loại xe WINNER, nhãn hiệu HONDA, màu sơn đỏ - đen.

+ Tịch thu tiêu hủy: Một cái quần Jean dài (nam), quần được làm bằng vải coton, màu xanh dương, kích cỡ quần size 30.

(Tài sản và vật chứng nêu trên hiện nay do Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Đề quản lý) - Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử buộc bị cáo Đinh Bảo L chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

- Về quyền kháng cáo bản án: Căn cứ vào các điều 331 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo; bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2020/HS-ST ngày 21/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:02/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Đề - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về