Bản án 02/2020/HS-ST ngày 16/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ THỌ - TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 02/2020/HS-ST NGÀY 16/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 01 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã P, tỉnh P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 77/2019/TLST-HS ngày 26 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Đình T - sinh ngày 05 tháng 05 năm 1989 tại thị xã P, tỉnh P; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Khu 11, xã P, thị xã P, tỉnh P; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn T, sinh năm 1959 và bà Hà Thị L, sinh năm 1964; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ ngày 04/11/2019, ngày 13/11/2019 bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã P, thị xã P, tỉnh P. (Có mặt)

* Người chứng kiến: Ông Nguyễn Hữu H, sinh năm 1969. Địa chỉ: Khu 4, xã P, thị xã P, tỉnh P. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 30 phút, ngày 04/11/2019 tại khu 4, xã P, thị xã P, tỉnh P; phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh P phát hiện một thanh niên có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu kiểm tra. Tại nơi kiểm tra, nam thanh niên này khai là Trần Đình T, sinh năm 1989, trú tại khu 11, xã P, thị xã P, tỉnh P. Quá trình kiểm tra, Trần Đình T tự giác giao nộp cho tổ công tác 02 gói nilon màu trắng, được dán bên ngoài bằng băng dính màu đen, bên trong cả 02 gói nilon đều có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng. T khai nhận 02 gói nilon chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng nêu trên là ma túy đá, T cất giữ để sử dụng cho bản thân. Ngoài ra, tổ công tác còn thu giữ của T 01 điên thoại di động nhãn hiệu màu trắng hồng, kèm theo 01 thẻ sim số 0963.105.590 và tiền NHNN Việt Nam: 300.000 đồng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và biên bản niêm phong vật chứng đối với 02 gói nilon chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng thu giữ của T theo quy định của pháp luật.

Ngày 04/11/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh P đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Đình T tại Khu 11, xã P, thị xã P, tỉnh P. Quá trình khám xét không thu giữ đồ vật, tài sản gì. Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh P ra quyết định trưng cầu giám định đối với 02 gói nilon bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng thu giữ của Trần Đình T. Tại bản kết luận giám định số 1294 ngày 07/11/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh P đã kết luận:“Chất rắn dạng tinh thể màu trắng chứa trong 02 gói nilon màu trắng, bên ngoài cả 02 gói nilon đều được dán bằng mảnh băng dính màu đen, gửi đến giám định là ma túy; có tổng khối lượng là: 0,366 gam, loại Methamphetamine.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, số thứ tự 323, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Hoàn trả lại 0,295 gam chất rắn dạng tinh thể màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định được dán kín, niêm phong trong 01 bì giấy bên ngoài được đóng 05 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh P và chữ ký của các thành phần liên quan tại các mép dán.” Tại cơ quan điều tra, Trần Đình T đã khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân.

Về nguồn gốc số ma túy: Trần Đình T khai nhận mua của một người đàn ông T không biết tên và địa chỉ ở khu vực thị trấn Đ, thành phố H. Cơ quan điều tra không đủ căn cứ, tài liệu để tổ chức xác minh người đàn ông này nên không đề cập xử lý là phù hợp.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Đình T khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên sáng ngày 01/11/2019 T đi xe khách từ nhà ở xã P, thị xã P xuống thị trấn Đ, thành phố H với mục đích tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây T đi vào một quán nước ở ven đường và gặp một người đàn ông T không biết tên và địa chỉ. Qua nói chuyện thì T biết người này có bán ma túy nên đã hỏi mua của người này 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) tiền ma túy. Người đàn ông này đồng ý, nhận tiền của T rồi đi đâu thì T không biết, khoảng 20 phút sau thì người này quay lại và bảo T đi lên xe máy rồi chở T đi. Khi đi được khoảng 500m thì người này đưa cho T một vỏ bao thuốc là Thăng Long, T mở ra xem thấy bên trong có 01 gói ma túy đá, T cầm và cất vào túi quần. Sau đó người này tiếp tục điều khiển xe chở T đến điểm đón, trả khách để T bắt xe khách về nhà. Sau khi về nhà, T đã lấy số ma túy mua được sử dụng cho bản thân 03 lần, còn lại một ít T cất đi đến trưa ngày 04/11/2019 T chia ra thành 02 gói đựng trong túi nilon màu trắng và cuốn băng dính màu đen lại rồi cất vào trong người. Khi T đang đi quanh khu vực ngã ba Gò Gai thuộc khu 4, xã P, thị xã P để tìm nơi sử dụng thì bị tổ công tác của Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy phát hiện bắt quả tang. Bị cáo lao động tự do, thu nhập thấp, sống cùng bố mẹ không có tài sản gì. Bố mẹ bị cáo đều được tặng thưởng huân huy chương.

Bản cáo trạng số 04/CT-VKSTXPT ngày 25/12/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã P truy tố bị cáo Trần Đình T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã P giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố không có lời tranh luận và bào chữa nào khác, đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Trần Đình T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Áp dụng khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Trần Đình T từ 12 tháng đến 15 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 47 BLHS; khoản 2, khoản 3 điều 106 BLTTHS.

+ Tịch thu tiêu hủy: 0,295 gam chất rắn dạng tinh thể màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định được dán kín, niêm phong trong 01 bì giấy niêm phong số 1294 ngày 07/11/2019 được đóng 05 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh P và chữ ký của các thành phần liên quan tại các mép dán.

+ Trả lại cho Trần Đình T 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu trắng hồng, đã qua sử dụng kèm thẻ sim số 0963105590 và số tiền 300.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo ân hận về hành vi mà bị cáo đã phạm, mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng:

Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Đánh giá các chứng cứ buộc tội đối với bị cáo:

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trần Đình T đã khai nhận đã có hành vi phạm tội như bản Cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với quá trình điều tra, giải quyết vụ án do đó có đủ cơ sở khẳng định:

Hồi 12 giờ 30 phút, ngày 04/11/2019, tại khu 4, xã P, thị xã P, tỉnh P, Trần Đình T thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,366 gam chất ma túy loại Methamphetamine để sử dụng cho bản thân thì bị phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh P phát hiện kiểm tra và thu giữ. Như vậy, có đủ căn cứ pháp lý kết luận bị cáo Trần Đình T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thị xã P truy tố bị cáo về tội danh cũng như điều luật là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

…………………… c) Heroin, cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

…………” [3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước được pháp luật hình sự bảo vệ nên cần phải được xử lý nghiêm. Bị cáo là thanh niên, có sức khỏe, hiểu biết xã hội nhưng lại không chịu lao động, rèn luyện bản thân mà lại có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân. Vì vậy, bị cáo phải chịu hình phạt tương xứng với hành vi đã gây ra, cần áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có đủ điều kiện giáo dục bị cáo trở thành người tốt, có ích cho xã hội. Song khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo. Trước lần phạm tội này, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo tỏ rõ ăn năn hối cải, bên cạnh đó bố mẹ của bị cáo đều được Nhà nước tặng thưởng huân huy chương, đó là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Xét về nhân thân, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Chỉ cần áp dụng hình phạt đối với bị cáo như Viện kiểm sát nhân dân thị xã P đề nghị là phù hợp. Mức án đó cũng đủ điều kiện để giáo dục bị cáo sửa chữa được lỗi mà bị cáo đã phạm.

[4] Về hình phạt bổ sung:

Tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Nhưng xét thấy hiện nay bị cáo là con nghiện ma túy, không có tài sản riêng, không có chức vụ gì nên HĐXX miễn hình phạt bổ sung theo quy định của điều luật cho bị cáo là phù hợp.

[5] Về vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã P thu giữ và chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thị xã P gồm:

01 bì niêm phong số 1294/KLGĐ của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh P đây là đồ vật thu giữ của bị cáo là vật nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu để tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu trắng hồng, đã qua sử dụng kèm thẻ sim số 0963105590 và số tiền 300.000 đồng thu giữ của bị cáo. Kết quả điều tra xác định chiếc điện thoại là phương tiện T dùng để liên lạc cá nhân, số tiền 300.000 đồng là do T lao động mà có không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[6] Về án phí: Bị cáo Trần Đình T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Trần Đình T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; phạt Trần Đình T 13 (Mười ba) tháng tù, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 04/11/2019 đến ngày 13/11/2019. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu của bị cáo Trần Đình T 01 bì niêm phong số 1294/KLGĐ ngày 07/11/2019 của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh P để tiêu hủy.

Trả lại cho bị cáo Trần Đình T 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu trắng hồng, đã qua sử dụng kèm thẻ sim số 0963105590 và số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng đến Chi cục thi hành án dân sự thị xã P, tỉnh P ngày 26/12/2019).

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Trần Đình T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh P để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2020/HS-ST ngày 16/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:02/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Thọ - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về