Bản án 02/2020/HS-ST ngày 15/01/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ  

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 02/2020/HS-ST NGÀY 15/01/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 15 tháng 01 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk. Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 63/2019/TLST-HS ngày 31/12/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2020/QĐXXST-HS ngày 02/01/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Ngọc Đ, sinh ngày 01/01/1979, tại tỉnh Bình Định; Nơi cư trú: Đội X, thôn V, xã M, huyện P, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: lái xe; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc Th và bà Võ Thị A; bị cáo có vợ là Lê Thị Quốc H và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2004, con nhỏ nhất sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Cao Văn L (đã chết)

+ Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Cao Văn Đ và bà Trần Thị Th (là cha, mẹ đẻ). Bà Th ủy quyền cho ông Đ tham gia tố tụng (văn bản ủy quyền ngày 12/8/2019). Ông Cao Văn Đ (vắng mặt).

Nơi cư trú: số nhà M, đường V, phường Đ, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk.

- Bị đơn dân sự: Bà Lê Thị Thu Thủy, sinh năm 1974 (vắng mặt)

Nơi cư trú: thôn H, xã M, huyện P, tỉnh Bình Định.

- Người làm chứng:

1. Võ Duy T (vắng mặt).

Nơi cư trú: thôn V, xã M, huyện P, tỉnh Bình Định.

2. Nguyễn Minh S (vắng mặt)

Nơi cư trú: thôn Ph, xã M, huyện P, tỉnh Bình Định.

3. Trần Đình T (vắng mặt)

Nơi cư trú: thôn Ph, xã M, huyện P, tỉnh Bình Định.

4. Nguyễn Xuân V (vắng mặt)

Nơi cư trú: tổ dân phố Y, phường Đ, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk.

5. Hoàng Lê Tuấn Anh (vắng mặt)

Nơi cư trú: tổ dân phố Z, phường T, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk.

6. Nguyễn Thị N (vắng mặt)

Nơi cư trú: tổ dân phố I, phường N, thành phố G, tỉnh Đắk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Ngọc Đ có giấy phép lái xe hạng E và là người lái xe cho nhà xe H chuyên chạy tuyến Bình Định – Đắk Nông và ngược lại. Vào khoảng 16 giờ ngày 07/9/2019, Nguyễn Ngọc Đ và Võ Duy T là hai tài xe được nhà xe giao điều khiển xe ô tô khách giường nằm biển kiểm soát 77B-010.xx chở 20 hành khách xuất phát từ tỉnh Bình Định về Đắk Nông. Khi xuất phát thì Võ Duy T là người điều khiển xe, đến trạm dừng quán cơm huyện S, tỉnh Bình Định thì Nguyễn Ngọc Đ thay T điều khiển xe. Đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày 08/9/2019, khi xe đi đến km1739 đường Hồ Chí Minh thuộc tổ dân phố X, phường T, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk thì Đ phát hiện phía trước cách khoảng 100m có xe mô tô chạy ngược chiều lấn sang đường ô tô (đường hai chiều có giải phân cách bằng vạch sơn kẻ đứt quãng), nghĩ là xe mô tô qua đường nên Đ không giảm tốc độ mà điều khiển xe chạy lấn sang bên trái đường theo hướng đi với vận tốc khoảng 60km/h. Khi khoảng cách giữa hai xe còn khoảng 20m thì Đ thấy xe mô tô vẫn chạy gần giữa đường (phần đường bên phải theo hướng đi của xe mô tô). Tuy nhiên, do khoảng cách giữa hai xe quá gần nên Đ không kịp xử lý để đạp phanh né tránh xe mô tô nên phần đầu bên trái xe ô tô đã va chạm với xe mô tô, hậu quả làm người điều khiển xe mô tô là anh Cao Văn L bị thương nặng, sau đó tử vong trên đường đưa đi cấp cứu.

Kết quả khám nghiệm hiện trường thể hiện: Vụ tai nạn giao thông xảy ra tại km1739+80m đường Hồ Chí Minh, thuộc tổ dân phố X, phường T, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk. Đoạn đường hai chiều mặt đường rộng 11m, làm bằng bê tông nhựa, bằng phẳng, giữa đường có vạch sơn kẻ đứt quãng phân chia làn đường, trên đường không có chướng ngại vật, tầm nhìn không bị che khuất. Chon mép đường bên phải theo hướng đi từ huyện K đi thành phố B làm chuẩn để đo đạc vị trí, dấu vết, phương tiện. Lấy trụ điện số 154 trên lề đường bên phải theo hướng đi từ thành phố B về huyện K làm mốc cố định của vụ tai nạn. Trên cơ sở vị trí các dấu vết, hướng đi của các phương tiện để lại hiện trường, xác định điểm va chạm đầu tiên giữa hai phương tiện chiếu vuông góc xuống mặt đường cách mép chuẩn là 6,5m, cách trụ điện số 154 là 15,6m, cách trục bánh sau bên phải của xe ô tô biển kiểm soát 77B- 010.xx là 24,6m, cách trục bánh trước bên của xe mô tô biển kiểm soát 47C1- 06.xxx là 32,5m.

Bản kết luận giám định pháp y tử thi số: 317/TTh ngày 19/9/2019 của Trung tâm Pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh Đắk Lắk kết luận: Nguyên nhân tử vong của anh Cao Văn L là do chấn thương sọ não nặng, đa chấn thương nặng khác do tai nạn giao thông.

Tại bản cáo trạng số: 05/CT - VKSBH ngày 31/12/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk truy tố Nguyễn Ngọc Đ về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự. Xử phạt: Nguyễn Ngọc Đ mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 03 năm đến 04 năm.

Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận việc bị cáo và đại diện chủ phương tiện xe ô tô biển kiểm soát 77B-010.xx đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường số tiền 65.000.000 đồng cho đại diện gia đình bị hại. Đại diện gia đình bị hại đã nhận đủ tiền và không yêu cầu gì hơn và làm đơn bãi nại cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Chấp nhận việc Cơ quan điều tra đã giao trả 01 xe ô tô biển kiểm soát 77B – 010.xx cùng với giấy chứng nhận kiểm định của xe ô tô trên cho bà Lê Thị Thu T. Tuyên trả 01 giấy phép lái xe ô tô số 520990000663, hạng E, mang tên Nguyễn Ngọc Đ do Sở Giao thông vận tải tỉnh Bình Định cấp ngày 11/11/2016 cho bị cáo. Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 47C1-06.xxx nhãn hiệu Yamaha, số loại Nouvo, số máy 5P11462818, số khung RLCN5P110CY462811, đây là tài sản hợp pháp của anh Cao Văn L. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng giao trả cho đại diện hợp pháp của anh Cao Văn L nhận. Tuy nhiên, ông Cao Văn Đ là đại diện hợp pháp của anh Cao Văn L chưa nhận nên đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo không có tranh luận, bào chữa gì và nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Trong phần nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Buôn Hồ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Ngọc Đ khai nhận: Bị cáo là người lái xe thuê cho nhà xe H chạy tuyến Bình Định đi Đắk Nông và ngược lại. Vào khoảng 00 giờ 30’ ngày 08/9/2019, khi bị cáo điều khiển xe ô tô khách giường nằm biển kiểm soát 77B-010.xx lưu thông từ hướng huyện K về B, khi đến km1739+80 đường Hồ Chí Minh thuộc tổ dân phố X, phường T, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk thì phát hiện phía trước ngược chiều cách khoảng 100m có 01 người điều khiển xe mô tô đi ngược chiều chạy lấn sang làn đường dành cho xe ô tô đi cùng chiều. Bị cáo nghĩ rằng người đi xe mô tô qua đường nên đã điều khiển xe ô tô đi sang phần đường bên trái của làn xe đi ngược chiều nhằm tránh xe mô tô, nhưng do xe mô tô không sang đường mà vẫn tiếp tục chạy loạng choạng bên phần đường của mình theo hướng đi. Do khoảng cách quá gần, bị cáo lại không kịp giảm tốc độ nên phần đầu bên trái của xe ô tô đã va vào xe mô tô gây ra tai nạn, hậu quả làm anh Cao Văn L tử vong.

[3] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và phù hợp với biên bản hiện trường, các tài liệu, chứng cứ, vật chứng đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 00 giờ 30 ngày 08/9/2019, bị cáo điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 77B-010.xx đi không đúng làn đường nên đã gây ra tai nạn hậu quả làm anh Cao Văn L tử vong. Hành vi của bị cáo là vi phạm vào quy định tại khoản 1 Điều 17 của Luật giao thông đường bộ. Khoản 1 Điều 17 của Luật giao thông đường bộ quy định: “Trên đường không phân chia thành hai chiều xe chạy riêng biệt, hai xe đi ngược chiều tránh nhau, người điều khiển phải giảm tốc độ và cho xe đi về bên phải theo chiều xe chạy của mình”. Do vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người.

...

[4] Bị cáo là công dân có đầy đủ năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi của bản thân trong cuộc sống. Bị cáo phải nhận thức được rằng ô tô là nguồn nguy hiểm cao độ, việc điều khiển phương tiện tham gia giao thông cần tuân thủ tuyệt đối các quy tắc về giao thông đường bộ để đảm bảo an toàn, không gây nguy hiểm cho người và các phương tiện khi cùng tham gia giao thông. Tuy nhiên, bị cáo đã không tuân thủ các quy tắc giao thông, điều khiển xe ô tô chạy sai làn đường gây ra tai nạn giao thông dẫn đến anh Cao Văn L tử vong.

Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm đến trật tự, an toàn công cộng xã hội, vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ dẫn đến thiệt hại về tính mạng của bị hại là anh Cao Văn L. Do vậy, Hội đồng xét xử cần áp dụng mức hình phạt đủ nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ rõ sự ăn năn hối cải, bị cáo cùng với chủ xe ô tô biển kiểm soát 77B – 010.xx là bà Lê Thị Thu T đã thỏa thuận bồi thường số tiền 65.000.000 đồng cho người đại diện hợp pháp của bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu gì thêm về trách nhiệm dân sự và làm đơn bãi nại cho bị cáo. Mặt khác, trong vụ án này bị hại là anh Cao Văn L cũng có phần lỗi khi tham gia giao thông đã sử dụng bia rượu, khi điều khiển xe mô tô đi loạng choạng trên đường, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự là phù hợp.

[8 ] Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân của bị cáo, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện tính khoan hồng của pháp luật. Xét bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng và được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên Hội đồng xét xử không cần thiết phải cách ly bị cáo với xã hội, mà chỉ cần áp dụng biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện để bị cáo tự học tập, cải tạo ở ngoài xã hội dưới sự giám sát của chính quyền địa phương và gia đình là phù hợp, như vậy cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.

[9] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đề nghị về tội danh, mức hình phạt và các vấn đề khác là phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, đại diện hợp pháp của bị hại là ông Cao Văn Đ đã kê khai các khoản tiền bồi thường gồm: Tiền mai táng: 40.000.000 đồng, tiền tổn thất tinh thần: 15.000.000 đồng, tiền tổn thất chiếc xe mô tô biển kiểm soát 47C1-06.xxx: 10.000.000 đồng, tổng cộng là 65.000.000 đồng. Bị cáo và chủ xe ô tô biển kiểm soát 77B-010.xx là bà Lê Thị Thu T đã thỏa thuận bồi thường số tiền 65.000.000 đồng cho đại diện hợp pháp của bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu gì thêm về trách nhiệm dân sự và làm đơn bãi nại cho bị cáo. Xét việc thỏa thuận bồi thường thiệt hại là tự nguyện, phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Về xử lý vật chứng:

[11.1] Đối với 01 xe ô tô biển kiểm soát 77B-010.xx nhãn hiệu THACO, 01 giấy chứng nhận kiểm định số D6CBE262672 là tài sản hợp pháp của bà Lê Thị Thu T, quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ đã ra quyết định xử lý vật chứng giao trả tài sản trên cho bà Lê Thị Thu T là chủ sở hữu hợp pháp nhận sử dụng là phù hợp.

[11.2] Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 47C1-06.xxx nhãn hiệu Yamaha, số loại Nouvo, số máy 5P11462818, số khung RLCN5P110CY462811, đây là tài sản hợp pháp của anh Cao Văn L nên cần tuyên trả chiếc xe mô tô nói trên cho ông Cao Văn Đ là đại diện hợp pháp của bị hại nhận là phù hợp.

[11.3] Đối với 01 giấy phép lái xe ô tô số 520990000663, hạng E, mang tên Nguyễn Ngọc Đ do Sở Giao thông vận tải tỉnh Bình Định cấp ngày 11/11/2016 cần tuyên trả cho bị cáo là phù hợp.

[12] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Ngọc Đ phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc Đ phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

[1] Về điều luật áp dụng và hình phạt:

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Đ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 (ba) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Ngọc Đ cho Ủy ban nhân dân xã M, huyện P, tỉnh Bình Định giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp bị cáo Nguyễn Ngọc Đ thay đổi nơi cư trú, thì được thực hiện theo quy định tại Điều 68 và Điều 92 của Luật thi hành án hình sự năm 2019.

Trong thời gian thử thách nếu bị cáo Nguyễn Ngọc Đ cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (hai) lần trở lên, thì Tòa án có thể buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[2] Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ các Điều 584, 585 và Điều 591 của Bộ luật dân sự.

Ghi nhận việc bị cáo và chủ xe ô tô biển kiểm soát 77B-010.xx đã tự nguyện bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại số tiền 65.000.000 đồng. Người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu gì thêm về trách nhiệm dân sự.

[3] Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[3.1] Chấp nhận việc Cơ quan điều tra đã giao trả 01 xe ô tô biển kiểm soát 77B-010.xx nhãn hiệu THACO, 01 giấy chứng nhận kiểm định số D6CBE262672 là tài sản hợp pháp của bà Lê Thị Thu T là chủ sở hữu hợp pháp nhận.

[3.2] Tuyên trả 01 xe mô tô biển kiểm soát 47C1-06.xxx nhãn hiệu Yamaha, số loại Nouvo, số máy 5P11462818, số khung RLCN5P110CY462811 cho ông Cao Văn Đ là người đại diện hợp pháp bị hại nhận.

[3.3] Tuyên trả 01 giấy phép lái xe ô tô số 520990000663, hạng E, mang tên Nguyễn Ngọc Đ do Sở Giao thông vận tải tỉnh Bình Định cấp ngày 11/11/2016 cho bị cáo nhận sử dụng.

(Đặc điểm, số lượng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/01/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã B, tỉnh Đắk Lắk).

[4] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo Nguyễn Ngọc Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người đại diện hợp pháp của bị hại, Bị đơn dân sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2020/HS-ST ngày 15/01/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ  

Số hiệu:02/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Buôn Hồ - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về