Bản án 02/2020/HS-ST ngày 15/01/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KS - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 02/2020/HS-ST NGÀY 15/01/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện KS, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 01/2019/TLST-HS, ngày 06 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:

03/2020/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 01 năm 2020 đối với:

Bị cáo: Vi Văn U. Tên gọi khác: Không. Sinh năm 1982 tại xã CL, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Bản Khe Tang, xã CL, huyện KS, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vi Văn Quý (chết) và bà Lương Thị Mai (chết); Có vợ họ và tên: Lo Thị Thủy và có 03 con, lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2010; tiền sự: Không, tiền án: Ngày 23/6/2016, bị Tòa án nhân dân huyện KS, tỉnh Nghệ An xử phạt 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo chấp hành xong bản án ngày 30/4/2019; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/9/2019 đến ngày 03/10/2019 thì được tại ngoại. Hiện đang bị áp dụng biện pháp “bảo lĩnh”. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Vi Văn U: Ông Lê Công Thiết. Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.

Người chứng kiến: Anh Vi Khăm Hương. Sinh năm 1986. Nơi cư trú: Bản Cù, xã CL, huyện KS, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ ngày 24/9/2019, Vi Văn U thuê xe lai của một người đàn ông không quen biết đi từ nhà đến bản Cò Sọ, xã Lượng Minh, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An để tìm mua ma túy. Tại đây, Uy gặp một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết hỏi mua của người này một gói ma túy (heroine) với giá 180.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Uy cất dấu trong túi quần của mình đi về nhà. Về đến nhà, Uy lấy một ít heroine ra sử dụng, số còn lại chia thành 11 gói nhỏ gói bằng giấy trắng có dòng kẻ cất vào túi quần của mình để bán kiếm lời. Khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, khi Uy đang ở khu vực bản Khe Tang, xã CL thì bị Công an huyện KS phát hiện bắt quả tang cùng số ma túy trên.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại vào ngày 25/9/2019 đã xác định: Chất màu trắng thu giữ của Vi Văn U có khối lượng sau khi đã loại bỏ bao bì là 0,2 gam (không phẩy hai). Hội đồng đã trích 0,1 gam (không phẩy một) chất màu trắng trên để gửi đi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 1304/KL-PC09(MT) ngày 01/10/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu chất màu trắng thu giữ của Vi Văn U gửi tới giám định là ma túy (Heroine).

Cáo trạng số 02/CT-VKS-HS ngày 05/12/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện KS, tỉnh Nghệ An truy tố Vi Văn U về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung cáo trạng, luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Vi Văn U mức án từ 27 tháng đến 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu và tiêu hủy: 01 (Một) phong bì bưu điện viền xanh đỏ, được dán kín, trên mép dán có đầy đủ chữ ký của hội đồng tham gia niêm phong và chữ ký của Vi Văn U, bên trong chứa khối lượng heroine còn lại là 0,1 gam cùng vỏ giấy niêm phong ban đầu; Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Tại phiên tòa, bị cáo Vi Văn U đồng ý với nội dung bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không có tranh luận gì. Bị cáo nói lời nói sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Về tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo Vi Văn U đồng ý với quan điểm, đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện KS. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng để xử bị cáo mức án thấp nhất như mức đề nghị của Kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện KS, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện KS, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về việc vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa, vắng mặt người chứng kiến, tuy nhiên xét thấy không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Vi Văn U đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 24/9/2019, tại khu vực bản Khe Tang, xã CL, huyện KS, tỉnh Nghệ An. Vi Văn U đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,2 gam heroine với mục đích để bán kiếm lời thì bị Công an huyện KS phát hiện và bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[4] Xét tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Vụ án có tính chất nghiệm trọng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quy định quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Hành vi của bị cáo không những làm mất trật tự an toàn xã hội trên địa bàn mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe, làm phát sinh các tệ nạn xã hội và gia tăng tội phạm khác. Bị cáo là người đã bị Tòa án xét xử về tội “mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội, thể hiện ý thức coi thường pháp luật, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “tái phạm”. Xét: Cần lên một mức án nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo riêng bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, do đó khi quyết định hình phạt nên xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo năm 2019, bị cáo bị bệnh tật, không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: 01 (Một) phong bì bưu điện viền xanh đỏ, được dán kín, trên mép dán có đầy đủ chữ ký của hội đồng tham gia niêm phong và chữ ký của Vi Văn U, bên trong chứa số heroine còn lại 0,1 gam (không phẩy một) cùng vỏ giấy niêm phong ban đầu là vật chứng không có giá trị sử dụng cần tịch thu và tiêu hủy.

[7] Xử lý đối với hành vi liên quan: Đối với người đàn ông đã bán heroine cho Uy. Người đàn ông đã mua heroin của Uy với giá 50.000 đồng theo lời khai của Uy, người đàn ông đi xe lai chở Uy, qua điều tra không xác định được danh tính cụ thể. Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra khi nào làm rõ được sẽ xử lý sau.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về điều luật áp dụng và tội danh: Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Vi Văn U: 28 (hai mươi tám) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/9/2019 đến ngày 03/10/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu và tiêu hủy:

01 (Một) phong bì bưu điện viền xanh đỏ, được dán kín, trên mép dán có đầy đủ chữ ký của hội đồng tham gia niêm phong và chữ ký của Vi Văn U, bên trong chứa số heroine còn lại 0,1 gam (không phẩy một) cùng vỏ giấy niêm phong ban đầu.

(Đặc điểm, tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/12/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện KS và Chi cục Thi hành án dân sự huyện KS tỉnh Nghệ An).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Vi Văn U phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án đến Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2020/HS-ST ngày 15/01/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:02/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về