Bản án 02/2020/HS-ST ngày 09/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 02/2020/HS-ST NGÀY 09/01/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện An Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 78/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 83/2019/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Tuấn H, sinh năm 1996 tại Hải Dương. Nơi cư trú: Thôn T, xã Đ, huyện K, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn L và bà Vũ Thị T1; chưa có vợ, con; tiền sự: Không; tiền án, nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2017/HSST ngày 22 tháng 3 năm 2017, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt Phạm Tuấn H 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (chưa được xóa án tích); bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 30 tháng 10 năm 2019 đến nay; có mặt.

- Bị hại: Anh Nguyễn Văn H1, sinh năm 1994; Nơi cư trú: Số 48/178 Nguyễn Văn L2, phường D, quận L1, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Đình L2, anh Phùng Văn T2, anh Nguyễn Văn H2; đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Phạm Tuấn H là công nhân làm việc tại tổ sản xuất Công ty TNHH K & P Electronics Việt Nam thuộc Khu công nghiệp T3, huyện A, Hải Phòng. Khoảng 08 giờ ngày 28 tháng 8 năm 2019, H đến công ty làm việc. Đến khoảng 11 giờ 30 cùng ngày, H đi vào phòng thay đồ nam của Công ty để lấy dép đi vệ sinh thì phát hiện thấy ngăn tủ số 64 của anh Nguyễn Văn H1 ở sát tường, phía trên, cánh cửa ngăn tủ hé nhưng không có chìa khóa ở ổ khóa nên nảy sinh ý định trộm cắp. H dùng tay giật mạnh cánh tủ ra, thấy bên trong có 01 điện thoại di động màu đen nhãn hiệu ARBUTUS, 01 ví da màu nâu, 01 ba lô và 01 lon nước ngọt. H lấy điện thoại để vào túi quần bên trái rồi mở ví lấy số tiền 170.000 đồng để vào túi quần bên phải rồi để ví lại trong tủ và đóng tủ lại. Sau đó, H đi ra khu vực nhà vệ sinh nam tắt nguồn điện thoại vừa trộm cắp được, cất giấu tại vị trí phía dưới bồn rửa mặt. H tiếp tục quay lại làm việc đến 20 giờ cùng ngày thì trở về nhà. Trên đường về, H sử dụng hết 110.000 đồng trong số tiền lấy trộm của anh H, còn lại 60.000 đồng. Đến 17 giờ ngày 29 tháng 8 năm 2019, sau khi hết ca làm việc, H đi ra nhà vệ sinh lấy điện thoại cất giấu lúc trước bỏ vào túi quần bên trái rồi đi đến khu vực tủ giầy ở sảnh công ty. Trên đường đi, H phát hiện thấy các anh Phùng Văn T2 và Nguyễn Văn H2 là cán bộ của công ty đi phía sau. H lo sợ bị phát hiện nên đã bỏ điện thoại vào tủ giầy rồi đi ra cổng thì bị bảo vệ giữ lại làm việc. H đã thừa nhận hành vi trộm cắp như trên và giao nộp lại tài sản trộm cắp gồm 01 điện thoại di động màu đen và 60.000 đồng.

Tại Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện An Dương ngày 11 tháng 9 năm 2019 thì chiếc điện thoại nhãn hiệu ARBUTUS màu đen H trộm cắp trị giá 800.000 đồng. Tổng trị giá tài sản H trộm cắp của anh H1 là 970.000 đồng.

Tại phiên tòa, Bị cáo Phạm Tuấn H khai: Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 28 tháng 8 năm 2019, bị cáo đã thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của anh Nguyễn Văn H1 như nội dung nêu trên Bị hại anh Nguyễn Văn H1 khai: Anh đã bị bị cáo Phạm Tuấn H chiếm đoạt tài sản gồm 01 điện thoại di động hiệu ARBUTUS và số tiền 170.000 đồng. Sau khi bị bị cáo chiếm đoạt tài sản, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Dương đã trả lại cho anh 01 điện thoại di động và số tiền 60.000 đồng; trước khi xét xử, bị cáo H đã trả cho anh số tiền còn lại là 110.000 đồng. Nay anh đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại Cáo trạng số 78/CT-VKS ngày 30 tháng 11 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương truy tố bị cáo Phạm Tuấn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b, khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Sau phần xét hỏi công khai tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương phân tích hành vi phạm tội, đánh giá tính chất vụ án, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm b, khoản 1, Điều 173; điểm b, điểm s, khoản 1 và khoản 2, Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Phạm Tuấn H từ 09 đến 12 tháng tù về tội: "Trộm cắp tài sản". Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Phạm Tuấn H.

- Về vật chứng: Một chiếc điện thoại di động màu đen nhãn hiệu ARBUTUS và số tiền 60.000 đồng, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện An Dương đã trả cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Văn H1 nên không phải giải quyết.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Nguyễn Văn H1 đã nhận lại điện thoại và 170.000 đồng nên không phải giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại gì nên các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Lời khai của bị cáo Phạm Tuấn H tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ xác định: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 28 tháng 8 năm 2019, bị cáo Phạm Tuấn H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản gồm: 01 điện thoại di động và số tiền 170.000 đồng của anh Nguyễn Văn H1 tại phòng thay đồ của Công ty TNHH K&P Electronics Việt Nam, thuộc Khu công nghiệp T3, huyện A, thành phố Hải Phòng, trị giá tài sản bị cáo chiếm đoạt của bị hại là 970.000 đồng, bị cáo H đã bị kết án về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích. Do vậy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” vi phạm điểm b, khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[3] Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương truy tố và đề nghị áp dụng đối với bị cáo Phạm Tuấn H theo tội danh và điều luật như trên là có cơ sở, đúng quy định của pháp luật.

- Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội. Chính vì vậy, đối với hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử phạt nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[5] Bị cáo H không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[6] Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Phạm Tuấn H thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho bị hại số tiền 110.000 đồng, bị hại có đơn đề nghị giảm nhẹ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo có ông nội tham gia cách mạng và được Nhà nước tặng thưởng Kỷ niệm chương Chiến sỹ bảo vệ Thành cổ Quảng Trị, Huân chương Chiến sĩ giải phóng, nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, điểm s, khoản 1 và khoản 2, Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Về hình phạt bổ sung:

[7] Xét bị cáo Phạm Tuấn H là lao động tự do, không có thu nhập và không có tài sản riêng, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về vật chứng:

[8] Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại tài sản là 01 điện thoại di động màu đen nhãn hiệu ARBUTUS và số tiền 60.000 đồng cho chủ sở hữu hợp pháp nên Tòa không xét.

- Về trách nhiệm dân sự:

[9] Bị hại anh Nguyễn Văn H1 đã nhận lại toàn bộ tài sản là 01 điện thoại di động màu đen nhãn hiệu ARBUTUS, số tiền 170.000 đồng và không yêu cầu gì khác, nên không còn gì phải xét.

- Về án phí:

[10] Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo:

[11] Bị cáo và bị hại có quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b, khoản 1, Điều 173; điểm b, điểm s, khoản 1 và khoản 2, Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Phạm Tuấn H 09 (chín) tháng tù về tội: "Trộm cắp tài sản".

Thời hạn tù của bị cáo Phạm Tuấn H tính từ ngày bắt thi hành án. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Phạm Tuấn H.

Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú của bị cáo Phạm Tuấn H không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm bị cáo đi chấp hành hình phạt tù.

Về án phí: Áp dụng khoản 2, Điều 135; khoản 2, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6; điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016 buộc bị cáo Phạm Tuấn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách nhà nước.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2020/HS-ST ngày 09/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:02/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về