Bản án 02/2020/HS-ST ngày 08/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀ BỒNG, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 02/2020/HS-ST NGÀY 08/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 08 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 04/2020/TLST - HS ngày 15 tháng 7 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2020/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo: Hồ Văn Tr; sinh ngày 10/10/2000 tại thôn C, xã Trà H, huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi; Nơi ĐKHKTT: thôn C, xã Trà H, huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi; Nơi sinh sống: thôn C, xã Trà H, huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Co; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt nam; Con ông Hồ Văn V, sinh năm 1981 và bà Hồ Thị C, sinh năm 1976; vợ, con chưa có; Tiền án: Vào ngày 12 tháng 6 năm 2018 bị Tòa án nhân dân huyện Trà Bồng xử phạt 01 năm cải tạo không giam giữ; về tội “Trộm cắp tài sản”; tiền sự: không; bị bắt, tạm giam từ ngày 04/9/2020; “có mặt”.

- Người bào chữa cho bị cáo Hồ Văn Tr: Bà Phạm Thị Hà Châu, Trợ giúp viên pháp lý công tác tại T tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Ngãi; “có mặt”.

- Bị hại: Chị Huỳnh Thị O, sinh năm 1981; Nơi cư trú: Tổ 1, thôn C, xã Trà H, huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi; “có mặt”.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Anh Hồ Văn V, sinh năm 1981; “ có mặt”

+ Anh Nguyễn T, sinh năm 1978; “ vắng mặt” Đều nơi cư trú: Tổ 1, thôn C, xã Trà H, huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi.

- Người làm chứng:

+ Anh Hồ Văn D, sinh năm 1999 “ có mặt”;

+ Anh Hồ Văn Ph, sinh năm 1979 “ có mặt”;

Đều nơi cư trú: Tổ 1, thôn C, xã Trà H, huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi.

+ Anh Hồ Văn Ch, sinh năm 1979; Nơi cư trú: Thôn 2, xã Trà Th, huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi “vắng mặt”;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ, ngày 24/12/2019, Hồ Văn Tr thấy nhà chị Huỳnh Thị O không có người, nên Tr đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. Hồ Văn Tr đột nhập vào nhà chị O từ phía sau nhà, leo lên mái nhà, đẩy tấm tôn xi măng của mái nhà ra một bên, rồi trèo vào trong nhà. Tại đây, Hồ Văn Tr phát hiện và lấy đi số tiền mặt tại tủ kính để bán thuốc của chị O, sau đó Tr tiếp tục đi vào phòng ngủ của chị O, phát hiện và lấy đi: 01 vòng đeo tay bằng vàng và một số tiền mặt tại tủ nhựa; 01 khâu nhẫn vàng và một số tiền mặt khác gồm nhiều tờ tiền có mệnh giá 500.000đ và mệnh giá khác nhau tại tủ bàn trang điểm. Sau khi, lấy tài sản nói trên, Tr bỏ số tiền lấy được ở tủ nhựa vào túi nilong màu trắng, còn lại số tiền lấy được tại bàn trang điểm gồm nhiều tờ tiền có mệnh giá cao, cùng 01 vòng tay bằng vàng và 01 khâu nhẫn vàng, Tr cho vào túi quần, rồi rời khỏi nhà chị O theo hướng cửa sau. Sau khi rời khỏi nhà chị O, Tr treo túi nilong màu trắng có chứa số tiền vừa trộm cắp được ở rào lưới B40 nhà ông Hồ Văn Tiềm (hàng xóm nhà chị O) mà không mang theo người vì sợ bị phát hiện. Sau đó Tr đến nhà ông Hồ Văn Ph để nhậu cùng ông Ph, anh Hồ Văn Ch và Hồ Văn D. Trong lúc nhậu, Tr dùng số tiền vừa trộm cắp được, cho ông Phước 500.000đ (năm trăm nghìn đồng). Sau khi nhậu xong, Tr năm ngủ lại tại nhà ông Ph, thì có đánh rơi 01 vòng đeo tay bằng vàng và 01 khâu nhẫn vàng do Tr trộm cắp được. Vào ngày 25/12/2019 Hồ Văn D (con trai ông Ph) phát hiện ra số tài sản này tại nhà mình, nên đã mang trả lại cho chị O.

Sau khi sự việc bị phát hiện, Hồ Văn Tr có đưa lại cho ông Hồ Văn V (cha ruột của Tr) số tiền 2.230.000đ (hai triệu, hai trăm ba mươi nghìn đồng), đây là số tiền Tr trộm cắp được tại nhà chị O, mà Tr còn cất giữ, với mục đích để ông V trả lại cho chị O. Ngày 26/12/2019, ông V đã trả lại số tiền này cho chị O. Chị O đã tiến hành giao nộp lại số tiền này cùng với 01 vòng tay bằng vàng và 01 khâu nhẫn vàng cho Cơ quan điều tra để phục vụ điều tra.

Qua quá trình điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ đã xác định được: Tổng số tiền mặt Tr trộm cắp được, bỏ vào túi nilong màu trắng có giá trị là 13.907.000đ (mười ba triệu chín trăm lẻ bảy nghìn đồng), số tiền này đã được Cơ quan điều tra tiến hành tạm giữ ngay sau khi phát hiện sự việc. Và tổng số tiền Tr đã trộm cắp tại bàn trang điểm của chị O gồm nhiều tờ tiền mệnh giá 500.000đ và nhiều mệnh giá khác nhau có giá trị là 18.100.000đ (mười tám triệu, một trăm nghìn đồng), số tiền này, hiện Tr đã làm mất, không xác định được vị trí làm mất, Cơ quan điều tra đã tổ chức truy tìm nhưng không tìm thấy, với số tiền này, ông Hồ Văn V đã tự nguyện bồi thường lại cho chị O.

Tại Cơ quan điều tra, Hồ Văn Tr đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Như vậy tổng số tiền mặt mà Hồ Văn Tr trộm cắp được tại nhà chị Huỳnh Thị O là 34.237.000đ (ba mươi bốn triệu, hai trăm ba mươi bảy nghìn đồng).

Tại kết luận giám định số 406/C09C(Đ4), ngày 06/5/2020 của Phân viện Kỹ thuật hình sự tại TP. Đà Nẵng kết luận:

- 01 (một) vòng đeo tay hình bầu dục bằng kim loại màu vàng, bề mặt bên ngoài có nhiều ký tự lạ, có khối lượng 28,87g, trong đó: hàm lượng Sắt 70,51%, hàm lượng Crôm 18,38%, hàm lượng Niken 7,81%, hàm lượng titan 1,05%, hàm lượng Đồng 0,39%, hàm lượng Mangan 0,83%, hàm lượng Kẽm 0,03%, hàm lượng Vàng 0,48%, hàm lượng Vanadi 0,11%, hàm lượng Coban 0,39%, hàm lượng Molypden 0,02%.

- 01 (một) nhẫn bằng kim loại màu vàng, mặt bên trong của nhẫn có các ký tự “ĐAO VY”, “1 CHỈ” và “999.9” có khối lượng 3,73g, trong đó: hàm lượng vàng 99,53%, hàm lượng Đồng 0,17%, hàm lượng Kẽm 0,19%, hàm lượng Bimut 0,11%.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 08/KL- HĐĐGTS ngày 27/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Trà Bồng, kết luận:

- 01 (một) vòng đeo tay hình bầu dục bằng kim loại màu vàng, bề mặt bên ngoài có nhiều ký tự lạ, có khối lượng 28,87g, trong đó: hàm lượng Sắt 70,51%, hàm lượng Crôm 18,38%, hàm lượng Niken 7,81%, hàm lượng titan 1,05%, hàm lượng Đồng 0,39%, hàm lượng Mangan 0,83%, hàm lượng Kẽm 0,03%, hàm lượng Vàng 0,48%, hàm lượng Vanadi 0,11%, hàm lượng Coban 0,39%, hàm lượng Molypden 0,02%. Có giá 200.000 (hai trăm nghìn đồng).

- 01 (một) nhẫn bằng kim loại màu vàng, mặt bên trong của nhẫn có các ký tự “ĐAO VY”, “1 CHỈ” và “999.9” có khối lượng 3,73g, trong đó: hàm lượng vàng 99,53%, hàm lượng Đồng 0,17%, hàm lượng Kẽm 0,19%, hàm lượng Bimut 0,11%. Có giá 4.200.000đ (bốn triệu hai trăm nghìn đồng).

Như vậy, tổng tài sản mà Hồ Văn Tr trộm cắp tại nhà chị Huỳnh Thị O có giá trị là: 38.637.000đ (ba mươi tám triệu, sáu trăm ba mươi bảy nghìn đồng).

Tại bản cáo trạng số: 04/CT-VKS ngày 15/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trà Bồng truy tố bị cáo Hồ Văn Tr về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 của BLHS năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm b, s Khoản 1, 2 Điều 51; điểm h Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017, tuyên phạt bị cáo Hồ Văn Tr từ 06 đến 12 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự:

Đại diện gia đình của Hồ Văn Tr là ông Hồ Văn V (cha ruột của Tr) đã hoàn trả lại số tiền 2.230.000đ (hai triệu hai trăm ba mươi nghìn đồng) do Tr trộm cắp được cho chị O và bồi thường, khắc phục hậu quả số tiền 18.100.000đ (mười tám triệu, một trăm nghìn đồng) do Tr trộm cắp được nhưng đã làm mất, cho chị O. Người bị hại là chị Huỳnh Thị O đã được bồi thường, khắc phục hậu quả và không có yêu cầu bồi thường trách nhiệm dân sự gì khác, nên không đặt vấn đề xử lý.

Về xử lý vật chứng:

Trong quá trình điều tra vụ án, Cơ quan cảnh sát điều tra đã lại cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Huỳnh Thị O nên HĐXX không xét.

Về lời bào chữa: Thống nhất với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo Tr đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện khắc phục hậu quả, là người dân tộc thiểu số, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Do đó đề nghị HĐXX áp dụng điểm b, s Khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Khoản 1 Điều 173 BLHS xử bị cáo mức án 6 tháng tù.

Qua lời tranh luận, đối đáp giữa người bào chữa với kiểm sát viên; lời nói sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trà Bồng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trà Bồng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ phạm tội:

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội; lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai của người bị hại; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, những người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu mà Cơ quan điều đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định:

Vào khoảng 18 giờ, vào ngày 24/12/2019, Hồ Văn Tr đã lén lút đột nhập vào nhà chị Huỳnh Thị O ở thôn Cưa, xã Trà Hiệp, huyện Trà Bồng Trộm cắp tài sản của chị Huỳnh Thị O với tổng giá trị tài sản là 38.637.000đ (ba mươi tám triệu, sáu trăm ba mươi bảy nghìn đồng) cất giấu để bán lấy tiền tiêu xài.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017. Do đó VKSND huyện Trà Bồng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật;

[3] Về tính chất, mức độ phạm tội:

Tại Cơ quan điều tra, Hồ Văn Tr đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Như vậy tổng số tiền mặt mà Hồ Văn Tr trộm cắp được tại nhà chị Huỳnh Thị O là 34.237.000đ (ba mươi bốn triệu hai trăm ba mươi bảy nghìn đồng).

Tại Kết luận giám định số 406/C09C(Đ4), ngày 06/5/2020 của Phân viện Kỹ thuật hình sự tại TP. Đà Nẵng kết luận:

- 01 (một) vòng đeo tay hình bầu dục bằng kim loại màu vàng, bề mặt bên ngoài có nhiều ký tự lạ, có khối lượng 28,87g, trong đó: hàm lượng Sắt 70,51%, hàm lượng Crôm 18,38%, hàm lượng Niken 7,81%, hàm lượng titan 1,05%, hàm lượng Đồng 0,39%, hàm lượng Mangan 0,83%, hàm lượng Kẽm 0,03%, hàm lượng Vàng 0,48%, hàm lượng Vanadi 0,11%, hàm lượng Coban 0,39%, hàm lượng Molypden 0,02%.

- 01 (một) nhẫn bằng kim loại màu vàng, mặt bên trong của nhẫn có các ký tự “ĐAO VY”, “1 CHỈ” và “999.9” có khối lượng 3,73g, trong đó: hàm lượng vàng 99,53%, hàm lượng Đồng 0,17%, hàm lượng Kẽm 0,19%, hàm lượng Bimut 0,11%.

Tại Kết luận định giá tài sản số 08/KL- HĐĐGTS ngày 27/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Trà Bồng, kết luận:

- 01 (một) vòng đeo tay hình bầu dục bằng kim loại màu vàng, bề mặt bên ngoài có nhiều ký tự lạ, có khối lượng 28,87g, trong đó: hàm lượng Sắt 70,51%, hàm lượng Crôm 18,38%, hàm lượng Niken 7,81%, hàm lượng titan 1,05%, hàm lượng Đồng 0,39%, hàm lượng Mangan 0,83%, hàm lượng Kẽm 0,03%, hàm lượng Vàng 0,48%, hàm lượng Vanadi 0,11%, hàm lượng Coban 0,39%, hàm lượng Molypden 0,02%. Có giá 200.000 (hai trăm nghìn đồng).

- 01 (một) nhẫn bằng kim loại màu vàng, mặt bên trong của nhẫn có các ký tự “ĐAO VY”, “1 CHỈ” và “999.9” có khối lượng 3,73g, trong đó: hàm lượng vàng 99,53%, hàm lượng Đồng 0,17%, hàm lượng Kẽm 0,19%, hàm lượng Bimut 0,11%. Có giá 4.200.000đ (bốn triệu hai trăm nghìn đồng).

Như vậy, tổng tài sản mà Hồ Văn Tr trộm cắp tại nhà chị Huỳnh Thị O có giá trị là: 38.637.000đ (ba mươi tám triệu, sáu trăm ba mươi bảy nghìn đồng).

Bị cáo Hồ Văn Tr là người có đầy đủ năng lực pháp luật, năng lực hành vi, nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật. Nhưng vì ham chơi lười lao động, muốn chiếm đoạt tài sản của người khác để có tiền tiêu xài thỏa mãn nhu cầu cá nhân.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được nhà nước bảo vệ, làm mất trật tự trị an, an toàn địa phương, gây hoang mang lo sợ cho quần chúng nhân dân.Vì vậy cần áp dụng một hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo; cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt cho xã hội và đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Ngày 12/6/2018 bị cáo bị TAND huyện Trà Bồng xử phạt 01 năm cải tạo không giam giữ về tội trộm cắp tài sản đến ngày 24/12/2019 chưa được xóa án tích nhưng lại tiếp tục tái phạm. Do đó cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h Khoản 1 Điều 52 của BLHS 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa Hồ Văn Tr đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình Hồ Văn Tr đã bồi thường, khắc phục hậu quả cho bị hại, là người đồng bào dân tộc thiểu số; tại phiên tòa bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Do đó, cần xem đây là những tình tiết giảm nhẹ và giảm nhẹ khác quy định tại các điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017, để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không nghề nghiệp, chưa có tài sản riêng, nên không áp dụng đối với bị cáo.

[6] Đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp với nhân định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[7] Người bào chữa đề nghị mức 6 tháng tù đối với bị cáo là chưa phù hợp với tính chất, mức độ khi thực hiện hành vi phạm tội; không có tác dụng răn đe đối với người phạm tội, nên không được chấp nhận;

[8] Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Bị hại chị Huỳnh Thị O đã được bồi thường và nhận lại đủ tài sản, tại phiên tòa không yêu cầu gì thêm, nên không đặt ra giải quyết.

[9] Về tang vật vụ án: Trong quá trình điều tra vụ án, Cơ quan cảnh sát điều tra đã lại cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Huỳnh Thị O, nên không xét.

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và đã có đơn xin miễn nộp tiền án phí. Căn cứ Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, Diều 14 và Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, bị cáo được miễn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Hồ Văn Tr phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s Khoản 1, 2 Điều 51; điểm h Khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Hồ Văn Tr 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 04/9/2020.

2. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo được miễn.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại UBND xã nơi cư trú, quyền được yêu cầu công bố hay không công bố bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2020/HS-ST ngày 08/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:02/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trà Bồng - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về