TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 02/2020/HS-ST NGÀY 08/01/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 08 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 99/2019/HSST ngày 12 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 99/2019/QĐXXST-HS ngày 27-12-2019 đối với bị cáo:
Trần Lý C, sinh năm 1993, tại tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú: ấp B, xã H, huyện C, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Oanh N và bà Trần Thị Mộng L; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị xử lý hành chính, chưa bị xử lý hình sự; bị cáo tại ngoại; “có mặt” - Bị hại:
1. Người đại diện hợp pháp cho bị hại Nguyễn Văn T (đã chết): Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1956; cư trú tại: Ấp B, xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre; “có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt”.
2. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1955; cư trú tại: Ấp B, xã B, huyện C, tỉnh Tây Ninh; “có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Sau khi đã sử dụng rượu bia, khoảng 18 giờ 00 phút, ngày 14/9/2019, Trần Lý C điều khiển xe mô tô hiệu Exciter, biển số 70D1-222.70 (không có giấy phép lái xe theo quy định), lưu thông trên đường huyện 7 theo hướng từ xã T về nhà ở xã H. Khi đến đoạn đường thuộc ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Tây Ninh thì bị cáo C điều khiển xe lấn sang bên trái va chạm với xe mô tô hiệu Nouvo, biển số 71B2-065.92, do anh Nguyễn Văn T điều khiển chở phía sau là bà Nguyễn Thị L đang lưu thông theo chiều ngược lại. Hậu quả làm anh T tử vong tại chỗ, bà L bị gãy xương cẳng tay trái, được đưa đi điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Tây Ninh.
Tại bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số 1387/KL-KTHS ngày 23/9/2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, kết luận: Anh Nguyễn Văn T tử vong do: Chấn thương kín vùng ngực, bụng làm rách tĩnh mạch chủ trên, rách quai động mạch chủ, vỡ gan.
Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 219/2019/TgT ngày 11/11/2019 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh tây Ninh, kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của bà Nguyễn Thị L do thương tích gây nên hiện tại là 14% (mười bốn).
Tại Biên bản kiểm tra nồng độ cồn lập lúc 21 giờ ngày 14/9/2019 đối với Trần Lý C là 0.34mg/1lít khí thở.
Tại bản cáo trạng số: 01/QĐ-KSĐT ngày 12 tháng 12 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo Trần Lý C về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a, b khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C trong phần tranh luận đã giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo C về tội danh trên, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 54 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Lý C từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù.
Về trách nhiệm dân sự, bị cáo C đã bồi thường cho các bị hại và các bị hại không yêu cầu gì khác nên ghi nhận. Ghi nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại tài sản cho chủ sở hữu theo quy định pháp luật.
Về bào chữa: Bị cáo C thống nhất với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến bào chữa cho mình.
Bị cáo C nói lời nói sau cùng: Bị cáo ăn năn hối cải, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm để làm một công dân tốt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Người đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Văn T là bà Nguyễn Thị N và bị hại Nguyễn Thị L có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Những lời khai của những bị hại này đã có đầy đủ trong hồ sơ vụ án, việc xét xử vắng mặt những người này không ảnh hưởng đến nội dung vụ án nên bị cáo và đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử vắng mặt họ. Căn cứ Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.
[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[3] Về tội danh: Trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên toà, bị cáo Trần Lý C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình theo đúng nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo C điều khiển xe mô tô tham gia giao thông không có giấy phép lái xe theo quy định và trong tình trạng đã sử dụng rượu bia với nồng độ cồn 0.34mg/1lít khí thở, thiếu quan sát, lấn sang bên trái gây tai nạn làm anh Nguyễn Văn T tử vong và làm bà Nguyễn Thị L bị tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 14% (mười bốn).
Xét lời khai nhận của bị cáo C phù hợp với biên bản hiện trường, cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Lý C phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.
[4] Về tính chất của vụ án: Vụ án mang tính chất rất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo C là rất nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo điều khiển xe ô tô tham gia giao thông không có giấy phép lái xe và trong tình trạng đã sử dụng rượu bia với nồng độ cồn vượt quá mức quy định gây tai nạn, hậu quả làm cho 01 người tử vong và 01 người bị chấn thương, lỗi hoàn toàn do bị cáo gây ra. Đây là hành vi bị nghiêm cấm được quy định tại khoản 8 Điều 8 và Điều 9 của Luật Giao thông đường bộ và là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự. Do đó, cần xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình; bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại; người đại diện hợp pháp của bị hại và bị hại có đơn bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự sẽ được Hội đồng xét xử xem xét khi áp dụng hình phạt đối bị cáo.
Bị cáo C không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Xét tính chất, mức độ hành vi của bị cáo, thấy rằng: Bản thân bị cáo lần đầu phạm tội, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cản, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng đối với bị cáo cũng đủ đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm, đồng thời thể hiện tính nhân đạo và khoan hồng của pháp luật.
[6] Về biện pháp tư pháp: Căn cứ các Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, bị cáo C đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại Thành số tiền là 70.000.000 đồng; bồi thường thiệt hại cho bị hại Lan số tiền 7.000.000 đồng. Người đại diện hợp pháp của bị hại Thành và bị hại Lan không yêu cầu gì khác nên ghi nhận.
- Về vật chứng:
+ Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là bà Nguyễn Thị N 01 xe mô tô biển số 71B2-065.92, nhãn hiệu Nouvo, màu trắng. Ghi nhận bà N đã nhận lại xe và không yêu cầu gì khác.
+ Đối với xe mô tô hiệu Exciter, biển số 70D1-222.70, đã qua sử dụng cần trả lại cho bị cáo C.
[7] Về án phí: Bị cáo C phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a, b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Trần Lý C phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Xử phạt: Bị cáo Trần Lý C 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.
2. Về vật chứng: Căn cứ các Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo Trần Lý C 01 (một) xe mô tô hiệu Exciter, biển số 70D1-222.70, đã qua sử dụng.
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Trần Lý C phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với người đại diện hợp pháp của bị hại Thành và bị hại Lan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 02/2020/HS-ST ngày 08/01/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Số hiệu: | 02/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/01/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về