Bản án 02/2020/HNGĐ-ST ngày 28/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC HÀ, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 02/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/05/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN 

Ngày 28 tháng 5 năm 2020. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai. Tòa án nhân dân huyện Bắc Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 111/2019/TLST-HNGĐ, ngày 25 tháng 12 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”.Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2020/QĐXX-ST, ngày 23 tháng 4 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2020/QĐST-HNGĐ, ngày 12/5/2020 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Chị Nguyễn Diệu N - sinh năm:1986.

Địa chỉ: TDP. B 5, Thị trấn B, huyện B, tỉnh Lào Cai - Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2.Bị đơn: Anh Phạm Văn D - sinh năm 1984.

Địa chỉ: Thôn N, xã T, huyện B, tỉnh Lào Cai - Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ly hôn đề ngày 25/12/2019 và bản tự khai có trong hồ sơ vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Diệu N trình bày: Chị N và anh Phạm Văn D kết hôn với nhau là hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện B vào ngày 09/12/2010. Trong quá trình chung sống anh, chị sống hòa thuận hạnh phúc, không biết vì lý do gì anh D bỏ nhà đi khỏi địa phương từ tháng 06 năm 2017 không nói gì cho chị và gia đình biết. Chị N đã tìm nhiều nơi nhưng không biết anh D đang ở đâu, làm gì, gia đình cũng không có tin tức gì và mất tích từ đó đến nay không về nhà. Chị Nguyễn Diệu N đã làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc Tuyên bố anh Phạm Văn D mất tích và đã được Tòa án giải quyết ngày 04 tháng 12 năm 2019. Nay chị N thấy để đảm bảo cuộc sống sau này của chị, nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Văn D.

Về con chung: Quá trình chung sống giữa chị N và anh D có 01 con chung, cháu tên là: Phạm Diệu M, sinh ngày 31/10/2013. Hiện nay cháu M đang sống cùng với chị Nga. Nguyện vọng của chị N đề nghị Tòa án giải quyết cho chị tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng cháu M, cho đến khi cháu đủ 18 tuổi, chị không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản và các khoản nợ: Trong thời gian sống chung giữa chị N và anh D không có tài sản chung gì và không vay nợ của ai, nên chị N không đề nghị Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Phạm Văn D, sinh năm 1984. Nơi cư trú cuối cùng: thôn N, xã T, huyện B, tỉnh Lào Cai đã bị Tòa án nhân dân huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai tuyên bố mất tích theo Quyết định số: 04/2019/QĐST- VDS, ngày 04/12/2019.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Hà phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét:

+ Về hôn nhân: Căn cứ khoản 2 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình: Chị Nguyễn Diệu N được ly hôn anh Phạm Văn D.

+ Về con chung: Căn cứ Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình: Giao cho chị Nguyễn Diệu N được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Phạm Diệu M, sinh ngày 31/10/2013, cho đến khi cháu My đủ 18 tuổi, anh Phạm Văn D không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành niêm yết thông báo thụ lý cho bị đơn anh Phạm Văn D theo quy định tại Điều 196 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án đã ra thông báo phiên họp, tiết cận công khai chứng cứ và hòa giải đã niêm yết tại nơi cư trú và trụ sở UBND xã T, huyện B nơi anh D cư trú trước đây và niêm yết thông báo hoãn phiên họp việc kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; niêm yết thông báo kết quả phiên họp công khai chứng cứ theo quy định tại Điều 209 và Điều 210 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân huyện Bắc Hà đã ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung và niêm yết Quyết định đưa vụ án ra xét xử, tại phiên tòa bị đơn vắng mặt không có lý do, nên đã ra quyết định hoãn phiên tòa và ấn định ngày xét xử. Tiến hành niêm yết Quyết định hoãn phiên tòa theo quy định. Tại phiên tòa hôm nay anh D vẫn không có mặt, nên áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự để giải quyết. Đối với chị Nguyễn Diệu N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn theo khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Diệu N và anh Phạm Văn D kết hôn với nhau từ năm 2010 và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Tà Chải vào ngày 09/12/2010. Trong quá trình chung sống anh chị sống hòa thuận hạnh phúc, không biết vì lý do gì anh D bỏ nhà đi khỏi địa phương từ tháng 06 năm 2017 và mất tích từ đó đến nay không về nhà. Chị Nguyễn Diệu N đã làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc tuyên bố anh Phạm Văn D mất tích. Tòa án nhân dân huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai đã ra Quyết định số: 04/2019/QĐST-VDS, ngày 04/12/2019 tuyên bố anh Phạm Văn D mất tích. Ngày 24/12/2019 chị N làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho chị đựơc ly hôn với anh D. Xét việc yêu cầu xin ly hôn của chị N là có cơ sở, phù hợi với quy định của khoản 2 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, nên cần chấp nhận giải quyết theo yêu cầu của chị Nga. Đối với chị Nguyễn Diệu N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn theo điểm a khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nuôi con khi ly hôn: Quá trình chung sống giữa chị N và anh D có 01 con chung. Cháu tên là Phạm Diệu M, sinh ngày 31/10/2013. Hiện nay cháu đang sống cùng với chị N. Nguyện vọng của chị N đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng cháu M cho đến khi cháu đủ 18 tuổi, chị N không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con chung.

Hội đồng xét xử xét thấy: Anh Phạm Văn D đã bị Tòa án nhân dân huyện Bắc Hà tuyên bố mất tích. Hiện nay cháu M đang sống cùng với chị N, chị N có nguyện vọng muốn được tiếp tục nuôi dưỡng cháu M, chị không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con chung là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 81,82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình, nên cần chấp nhận yêu cầu của chị N giao cho chị Nguyễn Diệu N được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng cháu Phạm Diệu M, sinh ngày 31/10/2013, cho đến khi cháu đủ 18 tuổi, anh Phạm Văn D không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Tuy nhiên để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cháu M, cũng như của cha, mẹ đối với con, khi nào anh D trở về chị N có quyền yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con chung hoặc anh D có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con thì sẽ giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác nếu có đủ căn cứ.

[4] Về tài sản chung và các khoản nợ: Trong thời gian sống chung giữa chị và anh D không có tài sản chung gì và không vay nợ của ai, chị N không đề nghị Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Diệu N phải chịu tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thâm theo quy đinh cua phap luât.

[6] Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Diệu N và anh Phạm Văn D được quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2 Điều 56; Điều 81; 82 và 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Khoản 4 Điều 147; điểm a,b khoản 2 Điều 227, khoản 1,3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án xử:

1.Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Diệu N được ly hôn với anh Phạm Văn D.

2. Về nuôi con khi ly hôn: Giao cho chị Nguyễn Diệu N được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Phạm Diệu M, sinh ngày 31/10/2013, cho đến khi cháu M đủ 18 tuổi, anh Phạm Văn D không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con; mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Diệu N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0002444, ngày 25 tháng 12 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sư huyện Bắc Hà.

Án xử công khai sơ thẩm vắng mặt nguyên đơn, bị đơn. Chị Nguyễn Diệu N và anh Phạm Văn D được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2020/HNGĐ-ST ngày 28/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:02/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Hà - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về