Bản án 02/2020/HNGĐ-ST ngày 23/03/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 02/2020/HNGĐ-ST NGÀY 23/03/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 23 tháng 3 năm 2020, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện P, tỉnh Gia Lai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 116/2019/TLST- HNGĐ ngày 06/12/2019, về việc “Ly hôn, nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2020/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 02 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2020/QĐST- HNGĐ ngày 05 tháng 3 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Hà Văn N, sinh năm 1985 Địa chỉ: Thôn Sơn Bình, xã A, huyện P, tỉnh Gia Lai. (Có mặt)

Bị đơn: Chị Hà Thị D, sinh năm 1991 Địa chỉ: Thôn Sơn Bình, xã A, huyện P, tỉnh Gia Lai (Vắng mặt lần 2)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 02 tháng 12 năm 2019, bản tự khai cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn anh Hà Văn N trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Hà Thị D tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn vào ngày 20/02/2009 tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện P. Cuộc sống chung của vợ chồng có hạnh phúc trong khoảng thời gian đầu. Đến ngày 05/6/2017 thì cô D bỏ nhà đi theo người đàn ông khác, anh và chị D đã sống ly thân thời gian dài và không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay tình cảm giữa anh và chị D không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh N yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau:

Về quan hệ hôn nhân: Anh yêu cầu được ly hôn với chị Hà Thị D.

Về con chung: Có 02 con chung tên là Hà Thị Tuyết N, sinh ngày 31/8/2009 và Hà Tuấn A, sinh ngày 19/8/2011 anh N yêu cầu được nuôi 02 con chung và không yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Anh N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn chị Hà Thị D: Quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật nhưng chị D vẫn không đến Tòa án làm việc và không nộp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện cùng các tài liệu, chứng cứ kèm theo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Gia Lai phát biểu quan điểm giải quyết vụ án N sau:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân theo đúng quy định tại các Điều 28, 35, 39, 68, 93, 97, 195, 196, 197, 203, 205, 208, 209; 220 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 28, 35 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Hà Văn N được ly hôn với chị Hà Thị D.

Về con chung: Giao 02 con chung cho anh Hà Văn N nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét. Về án phí: Buộc anh N phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng: Tòa án đã tiến hành xác minh chị Hà Thị D đã đi khỏi nơi cư trú không rõ thời điểm trở về nên không thể tống đạt trực tiếp được, Tòa án đã tống đạt niêm yêt các văn bản tố tụng của Tòa án theo đúng quy định của pháp luật Nhưng chị D vẫn không đến Tòa án nộp văn bản ý kiến của mình cũng N phiên tòa lần thứ nhất phải hoãn; Nay Tòa án tiếp tục mở phiên tòa xét xử lần thứ hai theo quy định tại Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về hôn nhân: Anh Hà Văn N và chị Hà Thị D kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện P, tỉnh Gia Lai vào ngày 20/02/2009; quan hệ hôn nhân của anh Hà Văn N và chị Hà Thị D là hợp pháp.

Quá trình chung sống của vợ chồng một thời gian có hạnh phúc. Đến năm 2017 chị D đã bỏ nhà đi dẫn đến hai bên đã sống ly thân trong thời gian dài, hiện tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài.Vậy xét yêu cầu của anh Hà Văn N đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với chị Hà Thị D là có căn cứ chấp nhận..

Về con chung: Có 02 con chung tên là Hà Thị Tuyết N, sinh ngày 31/8/2009 và Hà Tuấn A, sinh ngày 19/8/2011. Hiện nay con chung đang sống cùng anh Hà Văn N, nguyện vọng của 02 con chung là muốn ở với bố nếu Tòa án giải quyết về hôn nhân của anh N và chị D. Xét yêu cầu được nuôi dưỡng con chung của anh N phù hợp với nguyện vọng của 02 con chung nên có căn cứ, chấp nhận. Vậy cần giao 02 con chung cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hà Thị Tuyết N, sinh ngày 31/8/2009 và Hà Tuấn A, sinh ngày 19/8/2011 cho đến khi đủ tuổi thành niên.

Về cấp dưỡng nuôi con: Không xem xét do đương sự không yêu cầu.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung: Nguyên đơn anh Hà Văn N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Anh Hà Văn N phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 28, 35, 39, 147, 170; khoản 2 Điều 227; Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng khoản 1 Điều 51; Điều 53; Điều 54; Điều 56; Điều 57; Điều 81, 82,83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Hà Văn N, Về hôn nhân: Anh Hà Văn N được ly hôn với chị Hà Thị D.

Về con chung: Giao 02 con chung là Hà Thị Tuyết N, sinh ngày 31/8/2009 và Hà Tuấn A, sinh ngày 19/8/2011 cho anh Hà Văn N là người trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục kể từ ngày tuyên án hôm nay cho đến khi con thành niên và tự lập được hoặc đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và tài sản để tự nuôi mình. Chị D không phải cấp dưỡng nuôi con.

Vì lợi ích của con chung các đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và áp dụng việc cấp dưỡng nuôi con chung; chị Hà Thị D có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở thực hiện quyền này.

Về án phí: Anh Hà Văn N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đồng, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đồng, theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0006407 ngày 05 tháng 12 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Gia Lai. Anh N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (23/3/2020), nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án. Riêng bị đơn chị HàThị D vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yêt để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2020/HNGĐ-ST ngày 23/03/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:02/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Thiện - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về