Bản án 02/2020/HNGĐ-ST ngày 03/02/2020 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 02/2020/HNGĐ-ST NGÀY 03/02/2020 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 03 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 419/2019/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 12 năm 2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 395/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 12 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Chem Bé G, sinh năm 1985

Địa chỉ: Ấp B, xã Đ, huyện N, tỉnh Cà Mau.

Chị G có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt đề ngày 09/12/2019.

2. Bị đơn: Anh Lê Văn V, sinh năm 1981 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp T, xã P, huyện G, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn chị Chem Bé G trình bày: Chị và anh Lê Văn V kết hôn vào năm 2017 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện N, tỉnh Cà Mau và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 06/7/2017. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống có hạnh phúc được 01 năm nhưng sau đó cuộc sống vợ chồng luôn có mâu thuẫn xảy ra, nguyên nhân do bất đồng ý kiến, anh V đánh đập chị, không chăm lo cho gia đình vợ con nên tình cảm vợ chồng không còn. Chị và anh V đã sống ly thân khoảng 02 năm nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh V. Về con chung: Chị và anh V có 01 con chung là cháu Lê Giang H, sinh ngày 24/4/2017. Hiện nay, cháu H đang sống với chị. Chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu H, chị không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu tòa án xem xét giải quyết.

Tại bản tự khai bị đơn anh Lê Văn V trình bày:

Anh và chị Chem Bé G kết hôn vào năm 2017 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện N, tỉnh Cà Mau và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 06/7/2017. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống có hạnh phúc được thời gian đầu. Cuộc sống vợ chồng không có phát sinh mâu thuẫn, tuy nhiên vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay. Anh còn thương vợ thương con nên không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh và chị G có 01 con chung là cháu Lê Giang H, sinh ngày 24/4/2017, hiện nay đang sống với chị G. Nếu Tòa án giải quyết buộc ly hôn thì anh đồng ý để chị G được tiếp tục nuôi dưỡng cháu H, anh không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu tòa án xem xét giải quyết.

Kiểm sát viên Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

- Về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư ký: Thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn chị G có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Bị đơn anh V không thực hiện đúng quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Chem Bé G về việc xin ly hôn đối với anh Lê Văn V. Về con chung: Giao cháu Lê Giang H cho chị G tiếp tục nuôi dưỡng, anh V không cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; ý kiến đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Chem Bé G có yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con với anh Lê Văn V; địa chỉ: Ấp T, xã P, huyện G, tỉnh Bến Tre. Theo xác nhận của Công an xã P, huyện G thể hiện anh V có đăng ký thường trú và hiện đang sinh sống tại địa chỉ nêu trên nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Nguyên đơn chị Chem Bé G có đơn yêu cầu tòa án giải quyết vắng mặt đề ngày 09/12/2019. Bị đơn anh Lê Văn V đã được tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Do đó, tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị G, anh V là phù hợp với quy định tại Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Chị G và anh V kết hôn vào năm 2017 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện N, tỉnh Cà Mau và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 06/7/2017 nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống có hạnh phúc được thời gian đầu. Về sau vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Chị và anh V đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay. Chị G cho rằng cuộc sống vợ chồng luôn có mâu thuẫn xảy ra, anh chị bất đồng ý kiến lẫn nhau và anh V đánh đập chị nên chị xin ly hôn. Còn anh V thì cho rằng vợ chồng không có mâu thuẫn nên anh không đồng ý ly hôn. Xét thấy, Tòa án tiến hành hòa giải để chị G, anh V đoàn tụ nhưng chị G có đơn xin vắng mặt đã chứng tỏ chị G không muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng với anh V. Mặc dù, anh V không thừa nhận vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn nhưng anh thừa nhận vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay và mỗi người có một cuộc sống riêng. Như vậy, có căn cứ để xác định quan hệ hôn nhân giữa chị G và anh V đã mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng không còn tình cảm, quan tâm chăm sóc lẫn nhau, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị G đối với anh V là phù hợp.

[2.2] Về con chung: Chị G và anh V có 01 con chung là cháu Lê Giang H, sinh ngày 24/4/2017, chị G yêu cầu được nuôi con. Xét thấy, cháu H hiện nay dưới 36 tháng tuổi và đang sống với chị G. Theo quy định tại khoản 3 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình thì con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Do đó, để đảm bảo quyền và lợi ích về mọi mặt của con chung, đảm bảo sự phát triển bình thường tránh làm xáo trộn cuộc sống hiện nay của cháu H cần giao cháu cho chị G tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp. Về cấp dưỡng nuôi con: Theo quy định tại Điều 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình thì chị G có quyền yêu cầu anh V có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, chị G tự nguyện không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con nên ghi nhận.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Hai bên khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị G phải chịu 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp.

[4] Ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình; Các Điều 147, khoản 3 Điều 228, 273, 278 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Chem Bé G đối với anh Lê Văn V.

Chị Chem Bé G được ly hôn với anh Lê Văn V.

2. Về con chung: Giao cháu Lê Giang H, sinh ngày 24/4/2017 cho chị Chem Bé G trực tiếp trông nôm, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Anh V không phải cấp dưỡng nuôi con do chị G tự nguyện không yêu cầu.

Anh V được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở anh thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Toà án thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc của cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Hai bên khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Chem Bé G phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí Tòa án số: 0007489 ngày 04/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Bến Tre.

Quyền kháng cáo, kháng nghị: Đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kháng nghị bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được thông báo, niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2020/HNGĐ-ST ngày 03/02/2020 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:02/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về