Bản án 02/2019/HS-ST ngày 29/01/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒN ĐẤT – TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 02/2019/HS-ST NGÀY 29/01/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Trong ngày 29 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 02/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2019; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H - sinh năm: 1967 Chỗ ở: Khu phố 1, phường T, thị xã H, tỉnh Kiên Giang (Bị cáo không có nơi đăng ký nhân khẩu thường trú) Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam. Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 1/12; Nghề nghiệp: Mua bán phế liệu; Con ông: Nguyễn Hữu S (đã chết) và bà Đoàn Thị H – sinh năm 1933; Anh (chị) em ruột: gồm 02 người, nhỏ nhất sinh năm 1969, bị cáo là người con lớn nhất trong gia đình; Bị cáo sống chung như vợ chồng với Nguyễn Thị Ngọc T (không có đăng ký kết hôn).

Tiền sự: Không có

Tiền án: Có 02 tiền án

- Ngày 02/8/1996 bị Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xử phạt 16 tháng tù về tội “Trốn khỏi nơi giam giữ”. Tổng hợp hình phạt của bản án số 26/HSST, Ngày 17/5/1991 của Tòa án nhân dân thị xã Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang là 12 tháng 22 ngày. Bị cáo phải chấp hành hình phạt của 02 bản án là 28 tháng 02 ngày (thời hạn tù tính từ ngày 08/8/1995).

- Ngày 18/8/1999 bị Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xử phạt 20 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.(Chấp hành xong hình phạt ngày 10/11/2014).

Nhân thân:

-Ngày 14/4/2016 bị Ủy ban nhân dấn tỉnh Kiên Giang xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Vận chuyển hàng cấm” số tiền 70.000.000 đồng.

- Ngày 18/4/1987 bị tòa án nhân dân thị xã Rạch Giá (nay là thành phố Rạch Giá), tỉnh Kiên Giang xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”

- Ngày 10/11/2016 bị tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá xử phạt 03 năm tù về tội “Vận chuyển hàng cấm”

Bị cáo được miễn chấp hành hình phạt theo quyết định số 07/2017/QĐTA, ngày 13/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/9/2018 cho đến nay. (Các bị cáo có mặt)

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Ngọc T – Sinh năm 1970 (Có mặt)

Địa chỉ: khu phố A, phường T, thị xã H, tỉnh Kiên Giang.

Người làm chứng: Anh Dương Anh K – Sinh năm 1997 (Vắng mặt)

Địa chỉ: khu phố T, thị trấn S, huyện H, tỉnh Kiên Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 7 năm 2018, Nguyễn Văn H đi thu mua phế liệu tại huyện Kampotrack, tỉnh Campot, vương quốc Campuchia. Trong thời gian này, H có quen biết với người phụ nữ người Campuchia khoảng 40 tuổi (không biết tên, địa chỉ cụ thể), người phụ nữ này thuê H vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu từ Hà Tiên về thành phố Rạch Giá với giá 500.000 đồng một chuyến, H không đồng ý. Đến khoảng tháng 9 năm 2018, trong lúc H đi thu mua phế liệu thì gặp lại người phụ nữ trên, người phụ nữ này tiếp tục kêu H chở thuốc lá điếu nhập lậu, H đồng ý.

Đến khoảng 01 giờ sáng ngày 20/9/2018, người phụ nữ trên điện thoại cho H và kêu H chạy xe đến khu vực đất trống ở chợ Mỹ Đức thuộc xã Mỹ Đức, thị xã Hà Tiên (nay là thành phố Hà Tiên) nhận thuốc lá điếu nhập lậu để vận chuyển về tuyến đường tránh thuộc thành phố Rạch Giá, khi đến nơi sẽ có người phụ nữ tên Lý đến nhận hàng. H điều khiển xe mô tô biển số 68K4-2927 phía sau kéo thùng tự chế đến chợ Mỹ Đức thuộc xã Mỹ Đức, thị xã Hà Tiên (nay là thành phố Hà Tiên) (chiếc xe do H mượn của bà Nguyễn Thị Ngọc Thảo, còn H kéo tự chế là của H mua). Đến nơi thì H gặp một người đàn ông và một người phụ nữ (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) giao thuốc lá cho H, hai người này chuyển 05 bao màu trắng bên trong mỗi bao có chứa 400 bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu HERO lên thùng xe kéo của H, rồi người đàn ông đưa cho H 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) tiền công. Sau đó H điều khiển xe trên quốc lộ 80 về hướng thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

Đến khoảng 04 giờ 20 phút cùng ngày, khi đi đến khu vực thuộc khu phố Sơn Tiến, thị trấn Sóc Sơn, huyện Hòn Đất thì bị tổ tuần tra của Phòng Cảnh sát kinh tế Công an tỉnh Kiên Giang phát hiện bắt quả tang.

* Về vật chứng của vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hòn Đất đã thu giữ:

- 2000 (hai nghìn) bao thuốc lá ngoại hiệu HERO; 05 (năm) chiếc bao màu trắng, trên bao có in chữ màu xanh và trắng.

- 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 68K4-2927, đã qua sử dụng.

- 01 (một) giấy đăng ký xe mô tô 68K4-2927.

- 01 (một) tH xe kéo tự chế, làm bằng kim loại, kích thước 1,63m x 1,03m x 0,41m, đã qua sử dụng.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG Galaxy J6, số kiểu máy: SM-J600G/DS, số sêri: R58K61QXZ6X, gắn sim số 0378743319, đã qua sử dụng.

Tại bản cáo trạng số 04/CT-VKS ngày 14/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Vận chuyển hàng cấm” theođiểm l khoản 2 Điều 191 của Bộ luật hình sự.

Đi diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụngđiểm l khoản 2 Điều 191; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáoNguyễn Văn H mức án từ 02 năm đến 03 năm tù giam.

Về xử lý vật chứng:Trong quá trình điều tra đã xác định chiếc xe mô tô biển kiểm soát 68K4-2927 là do H mượn của bà Nguyễn Thị Ngọc T, người chung sống như vợ chồng với H, bà Thảo không biết việc H sử dụng xe để vận chuyển thuốc lá nhập lậu, Chiếc xe này là do bà T tự bỏ tiền ra mua nên đề nghị Hội đồng xét xử trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát 68K4-2927 và giấy đăng ký xe mô tô 68K4-2927 cho bà Nguyễn Thị Ngọc T là chủ sở hữu tiếp tục sử dụng.

Đề nghị hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 2000 (hai nghìn) bao thuốc lá ngoại hiệu HERO; 05 (năm) chiếc bao màu trắng, trên bao có in chữ màu xanh và trắng;

Tch thu sung quỹ nhà nước 01 (một) thùng xe kéo tự chế, làm bằng kim loại, kích thước 1,63m x 1,03m x 0,41m, đã qua sử dụng;01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG Galaxy J6, số kiểu máy: SM-J600G/DS, số sêri: R58K61QXZ6X, gắn sim số 0378743319, đã qua sử dụng của Nguyễn Văn H là công cụ phạm tội.

Truy thu số tiền 500.000 đồng của Nguyễn Văn H do phạm tội mà có để sung quỹ Nhà nước.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi hội đồng xét xử vào phòng nghị án: các bị cáo ăn ăn hối cải với hành vi phạm tội của mình, xin hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm về xã hội nuôi mẹ già.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hòn Đất, điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòn Đất, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Ti phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như sau:

Vào khoảng 01 giờ ngày 20/9/2018, Nguyễn Văn H đã có hành vi dùng xe mô tô biển số 68K4-2927 phía sau kéo thùng tự chế đến địa điểm thuộc xã Mỹ Đức, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang vận chuyển 2000 bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu HERO từ thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang về thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, đến khoảng 04 giờ 20 cùng ngày, khi đến khu phố Sơn Tiến, thị trấn Sóc Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang thì bị tổ tuần tra của Phòng Cảnh sát kinh tế Công an tỉnh Kiên Giang phát hiện bắt quả tang.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu chứng cứ tró trong hồ sơ vụ án do đó Hội đồng xét xử có đầy đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nguyễn Văn H đã phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”. Ở lần phạm tội này bị cáo “tái phạm nguy hiểm” nên phải chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm l khoản 2 Điều 191 Bộ luật hình sự. Do đó Viện kiểm sát truy tố bị cáo theo quy định tại điểm l khoản 2 Điều 191 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính, bị xét xử về tội “vận chuyển hành cấm” là thuốc lá điếu nhập lậu nên bị cáo phải nhận thức được rằng vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu là vi phạm pháp luật nhưng vì động cơ ham lợi, muốn có tiền thu nhập cao nên bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật sa vào con đường phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo không những trực tiếp xâm phạm đến lĩnh vực quản lý kinh tế của nhà nước mà còn gây mất tình hình an ninh trật tự tại địa phương do đó cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm nhằm cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, biết tuân thủ pháp luật qua đó cũng nhằm mục đích răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5]Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 điều 51 BLHS để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo

[6] Về biện pháp tư pháp:Căn cứ các điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS

Tịch thu tiêu hủy 2000 (hai nghìn) bao thuốc lá ngoại hiệu HERO; 05 (năm) chiếc bao màu trắng, trên bao có in chữ màu xanh và trắng. Do đây là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, không có giá trị sử dụng.

Tch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) thùng xe kéo tự chế, làm bằng kim loại, kích thước 1,63m x 1,03m x 0,41m (đã qua sử dụng); 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG Galaxy J6, số máy: SM-J600G/DS, số sêri: R58K61QXZ6X, gắn sim số 0378743319 (đã qua sử dụng) của Nguyễn Văn H là công cụ, phương tiện phạm tội.

Truy thu số tiền 500.000 đồng của Nguyễn Văn H do phạm tội mà có để sung vào ngân sách Nhà nước.

Đi với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 68K4-2927 là do Nguyễn Văn H mượn của bà Nguyễn Thị Ngọc Thảo, bà Thảo không biết việc H sử dụng xe để vận chuyển thuốc lá nhập lậu, nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm a, khoản 3 Điều 106 trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát 68K4-2927 và giấy đăng ký xe mô tô 68K4-2927 cho bà Nguyễn Thị Ngọc Thảo là chủ sở hữu tiếp tục sử dụng.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứđiểm l khoản 2 Điều 191; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 02 (hai) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/9/2018.

2. Về biện pháp tư pháp: Căn cứ các điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS

Tịch thu tiêu hủy 2000 (hai nghìn) bao thuốc lá ngoại hiệu HERO; 05 (năm) chiếc bao màu trắng, trên bao có in chữ màu xanh và trắng.

Tch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) thùng xe kéo tự chế, làm bằng kim loại, kích thước 1,63m x 1,03m x 0,41m (đã qua sử dụng); 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG Galaxy J6, số máy: SM-J600G/DS, số sêri: R58K61QXZ6X, gắn sim số 0378743319 (đã qua sử dụng).

Trả lại cho bà Nguyễn Thị Ngọc T 01 xe mô tô biển kiểm soát 68K4-2927 và giấy đăng ký xe mô tô 68K4-2927 cho bà Nguyễn Thị Ngọc T là chủ sở hữu tiếp tục sử dụng.

(Các vật chứng này hiện đang được quản lý tại chi cục thi hành án dân sự huyện Hòn Đất theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/12/2018) Truy thu số tiền 500.000 đồng của Nguyễn Văn H do phạm tội mà có để sung vào ngân sách Nhà nước.

3. Về án phí:Căn cứ khoản 2 điều 135, khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016 UBTVQH quy định về lệ phí án phí Tòa án; Bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:Báo cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

318
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2019/HS-ST ngày 29/01/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:02/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hòn Đất - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về