Bản án 02/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHONG THỔ, TỈNH L AI CHÂU

BẢN ÁN 02/2019/HS-ST NGÀY 28/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 02 năm 2019, Toà án nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 03/2019/TLST-HS, ngày 28 tháng 01 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2019/QĐXXST - HS ngày 15 tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo:

Lý Thị S, tên gọi khác: không; sinh năm: 1969; tại huyện B, tỉnh L; nơi làm việc, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: bản S, xã S, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu; giới tính: Nữ; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ học vấn: không biết chữ; dân tộc: Mông; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: đạo tin lành; con ông Lý A L (đã chết) và bà Vàng Thị D, sinh năm 1947; gia đình có 10 anh, em, bị cáo là con thứ tư trong gia đình; bị cáo có chồng là Sùng A S1, sinh năm 1965 và có 04 con, các con đều trên 18 tuổi; tiền sự: không; tiền án: không; bị cáo bị bắt tạm giữ 08 ngày thì được chuyển biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. Bị cáo được triệu tập có mặt tại phiên tòa.

-Người tham gia tố tụng khác:

+ Người phiện dịch cho bị cáo: Anh Sùng A T, sinh năm 1988;

Nơi cư trú: Thôn P, thị trấn P, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu (có mặt).

+Người làm chứng: Anh Vàng A T, sinh năm 1976; địa chỉ: Bản S, xã S, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 15 giờ 30 phút ngày 31 tháng 10 năm 2018, tại sân nhà ông Vàng A T, sinh năm 1976 ở bản S, xã S, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu, tổ công tác đồn Biên phòng S bắt quả tang Lý Thị S, sinh năm 1969 cùng ở bản S đang cầm trên tay hai gói nhỏ được gói ngoài bằng nilon màu đỏ trong là chất bột khô, vón cục, màu trắng mà S khai là Heroine của S mua về để sử dụng cho bản thân; Cụ thể, Lý Thị S khai, khoảng hơn 13 giờ cùng ngày S đi bộ từ nhà lên bản C, xã S để tìm mua Heroine. Khi Lý Thị S đi đến bản S, xã S thì gặp anh Vàng A T, người cùng bản đi xe máy qua, Lý Thị S hỏi biết anh T có đến bản C nên xin đi nhờ, anh T đồng ý. Trên đường đi S không nói gì về việc đi C mua ma túy. Cả hai đi đến cuối bản C thì S gặp một người phụ nữ tên là M dân tộc Dao (S không biết tên họ thật và địa chỉ cụ thể ở đâu) nên đã bảo anh T dừng xe cho S xuống gặp M, còn T điều khiển xe đến nhà một người dân tìm hỏi mua thuốc chữa ghẻ. Lý Thị S gặp chị M hỏi M có Heroine bán không, M bảo có, muốn mua thì M đi lấy cho. Qua trao đổi S mua 50.000 đồng, M bảo S đứng đợi còn M đi đâu đó rồi quay lai đưa cho S hai gói Heroine, mỗi gói được gói người bằng nilon màu đỏ đốt túm lại. S nhận gói Heroin không kiểm tra mà nhặt dưới đường một mảnh giấy trắng gói hai gói Heroine lại cầm trên tay đưa trả tiền cho M. Mua được Heroine S thấy T đi từ nhà một người dân ra nên tiếp tục xin đi nhờ về nhà, T đồng ý. Trên đường đi S không nói gì về việc S có ma túy trên người. Đến 15 giờ 30 phút về đến nhà T ở bản S, khi anh T đi vào trong nhà còn S đang đứng ở sân thì bị tổ công tác đồn Biên phòng S phát hiện bắt quả tang S đang cầm trên tay trái hai gói Heroine.

Tại bản kết luận giám định số: 428/GĐ-KTHS, ngày 09/11/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận:" Vật chứng thu giữ của Lý Thị S là chất bột khô, vón cục, màu trắng có khối lượng 0,12gam. Mẫu vật gửi đến giám định là ma túy loại Heroine”.... không hoàn lại mẫu vật gửi đến giám định".

Bản cáo trạng số: 03/CT-VKS, ngày 28 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu đã truy tố bị cáo Lý Thị S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu luận tội và tranh luận: sau khi phân tích các tài liệu chứng cứ đã được thu thập trong quá trìnhđiều tra cũng như diễn biến  tại phiên tòa, thái độ thành khẩn khai báo của bị cáo và sự thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo đủ khẳng định quyết định truy tố là đúng cần giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, về hình phạt đề nghị áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 18 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, đồng thời đề nghị giải quyết vật chứng, án phí theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo, không có tình tiết mới; Bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định, nhất trí với luận tội, không có ý kiến tranh luận; bị cáo có thái độ thành khẩn và nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Phong Thổ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tại phiên tòa Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa, Kiểm sát viên và bị cáo đề nghị xét xử vắng mặt người này. Xét việc người này vắng mặt không gây cản trở cho việc xét xử nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt họ.

[2] Tại phiên tòa hôm nay qua xét hỏi bị cáo Lý Thị S đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong vật chứng của vụ án, bản kết luận giám định số: 428/GĐ-KTHS, ngày 09/11/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu, lời khai của bị cáo, của người làm chứng tại cơ quan điều tra cùng các tài liệu có trong hồ sơ đủ kết luận: Hồi 15 giờ 30 phút, ngày 31/10/2018, tại sân nhà anh Vàng A T ở bản S, xã S, huyện Phong thổ, tỉnh Lai Châu, Lý Thị S, sinh năm 1969, trú tại bản S, xã S, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu đang cầm trên tay trái 02 gói Heroine được gói ngoài bằng nilon màu đỏ đốt túm lại có tổng khối lượng 0,12 gam mà S khai vừa mua được của một người phụ nữ, tên M ở bản C, xã S khoảng lúc hơn 13 giờ cùng ngày để sử dụng cho bản thân, nhưng chưa sử dụng thì bị bắt giữ.

Hành vi mua ma túy để sử dụng cho bản thân không có mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất chính là hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó đã xâm phạm chính sách quản lý độc quyền các chất ma túy của Nhà nước ta; Bản thân bị cáo là người đã trưởng thành, có sức khỏe, nhận thức được tác hại của ma túy và hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý phạm tội. Vậy, Hội đồng xét xử kết luận bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là hoàn toàn có căn cứ đúng người, đúng tội cần chấp nhận; Cụ thể điều luật quy định:

“Khoản 1: Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine....có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05gam”.

[3] Xét tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra thuộc tội phạm nghiêm trọng, nhất là loại tội phạm về ma túy đang được Đảng và Nhà nước ta nghiệm cấm trừng trị. Do vậy cần phải xử lý nghiêm bằng luật hình sự để giáo dục, cải tạo bị cáo, cũng như góp phần đấu tranh phòng ngừa chung, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật cho công dân.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo sinh ra và lớp lên ở nơi có điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội khó khăn, bản thân lại không được đi học nên phần nào hạn chế về nhận thức là tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, để xem xét giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo, nhưng vẫn buộc bị cáo phải đi tập trung cải tạo một thời gian với mức án tương xứng để bị cáo có thời gian cai nghiện được ma túy, sớm hòa nhập công đồng, trở thành người có ích cho xã hội.

[5] Về vật chứng: Số Heroine thu giữ của bị cáo đã gửi giám định hết hiện chỉ còn toàn bộ vỏ niêm phong cũ đã được niêm phong cần tịch thu để tiêu hủy vì là vật không có giá trị sử dụng theo khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự (phong bì niêm phong có đặc điểm và hiện chuyển đến lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 22/10/2018 giữa Công an huyện Phong Thổ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phong Thổ).

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bản thân bị cáo làm ruộng, mục đích mua ma túy chỉ để thỏa mãn nhu cầu của bản thân không có mục đích lợi nhuận; hoàn cảnh gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Hội đồng xét xử thấy lời đề nghị của Viện kiểm sát tại phiên tòa về việc giải quyết vụ án là phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.

 [7] Về nguồn gốc ma túy: Bị cáo khai mua ma túy của một người phụ nữ dân tộc Dao, tên là M ở cuối bản C, xã S nhưng bị cáo không biết họ, tên tuổi thật, địa chỉ cụ thể của người đó, ngoài lời khai của bị cáo không có chứng cứ nào khác nên Cơ quan điều tra không đủ căn cứ để xem xét xử lý người phụ nữ này trong vụ án là có căn cứ.

[8] Về án phí: Bị cáo thuộc hộ nghèo và tại phiên tòa có lời trình bày xin miễn án phí là có căn cứ theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố bị cáo Lý Thị S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2/ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lý Thị S 12 (Mười hai) tháng tù (khấu trừ 08 ngày bị tạm giữ cho bị cáo). Vậy bị cáo còn phải chấp hành 11 (Mười một) tháng 22 (Hai mươi hai) ngày tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày đi thi hành án.

3/ Về hình phạt bổ sung: áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

4/ Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu một phong bì đã được niêm phong (trong toàn bộ vỏ niêm phong cũ đã được niêm phong) để tiêu hủy; (Phong bì niêm phong hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện có đặc điểm theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 28/01/2019, giữa cơ quan Công an huyện Phong Thổ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu).

5/Về án phí: Áp dụng Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 miễn án phí Hình sự sơ cho bị cáo Lý Thị S.

6/ Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:02/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phong Thổ - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về