Bản án 02/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 02/2019/HS-ST NGÀY 26/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 01/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 01 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Thanh T, sinh ngày 09 tháng 8 năm 1975; nơi sinh: Xã Đ, huyện T, tỉnh Phú Thọ; nơi ĐKHKTT: Thôn T 1, xã T, thành phố H, tỉnh Hòa Bình; nơi ở hiện tại: Tổ 14C, phố A, phường T, thành phố V, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đức H (đã chết) và bà Bùi Thị Hải S; có vợ: Trần Tuệ L (đã ly hôn năm 2009) và 01 con sinh năm 1997; tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19 tháng 11 năm 2018 đến nay (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Hồ Quang A, sinh năm 1990; nơi cư trú: Tổ 4b, khu 19, phường G, thành phố V, tỉnh Phú Thọ (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Trần Thanh T là đối tượng nghiện chất ma túy. Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 19 tháng 11 năm 2018, T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát: 19B1-082.52 đi từ phường T, thành phố V đến khu vực sân bóng thị trấn Y, huyện Y mua ma túy để sử dụng. Tới nơi, T tìm gặp một người đàn ông, không rõ tên, tuổi, địa chỉ mua 01 gói ma túy, với giá 500.000đ. Mua xong, T điều khiển xe mô tô ra về đến khu 4, thôn Đ, thị trấn Y, huyện Y thì bị Tổ công tác của Công an huyện Yên Lạc phát hiện, bắt quả tang.

Vật chứng vụ án: Thu trong lòng bàn tay trái của T 01 gói nhỏ bọc nilon màu đen, bên trong chứa chất bột cục màu trắng, được niêm phong có ký hiệu A1; thu 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung màu vàng trắng bị nứt vỡ màn hình và 01 xe mô tô biển kiểm soát: 19B1-082.52.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã gửi mẫu có ký hiệu A1 đi giám định.

Tại Kết luận giám định số: 1723/KLGĐ ngày 23 tháng 11 năm 2018, của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Chất bột cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 0,1785g (Không phảy một bảy tám lăm gam, không kể bao bì), loại Heroine.

Bản cáo trạng số: 02/CT-VKS ngày 25 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc truy tố bị cáo Trần Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý ” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Trần Thanh T. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Trần Thanh T từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo, vì không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, xác nhận Cơ quan điều tra đã trả cho anh Hồ Quang A 01 xe mô tô biển kiểm soát: 19B1-082.52 là phù hợp; đề nghị trả cho bị cáo T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung màu vàng trắng bị nứt vỡ màn hình nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án; tịch thu tiêu hủy bao gói niêm phong mẫu vật ký hiệu A1còn lại sau giám định.

Bị cáo nói lời sau cùng: Tôi biết việc làm của tôi là vi phạm pháp luật, tôi xin sửa chữa lỗi lầm, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho tôi được hưởng mức án thấp nhất để tôi sớm được về chăm sóc mẹ già.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 13 giờ 45 phút ngày 19 tháng 11 năm 2018, tại đoạn đường thuộc khu 4, thôn Đ, thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc,Trần Thanh T có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy thì bị Tổ công tác của Công an huyện Yên Lạc phát hiện bắt quả tang. Vật chứng thu giữ 01 gói ma túy, có khối lượng là 0,1785g (Không phảy một bảy tám lăm gam, không kể bao bì), loại Heroine. Nguồn gốc gói ma túy trên, T khai do T mua của người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ tại khu vực sân bóng thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc.

Xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, lời khai của người chứng kiến, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng thu được và các tài liệu khác có trong hồ sơ, nên có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Trần Thanh T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. 

Khoản 1 Điều 249 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy… thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01năm đến 05 năm:

a)……………………………………… ………………………………………...

c) Hêrôin,… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam ”.

Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm lớn cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét về nhân thân thì thấy bị cáo là người có sức khỏe, có trình độ và hiểu biết xã hội nhưng không chịu lao động chân chính, sống đua đòi với những thành phần xấu nên nghiện chất ma túy từ nhiều năm nay và dẫn đến phạm tội. Vì vậy, cần phải lên mức hình phạt tương xứng với hành vi mà bị cáo gây ra mới đủ điều kiện giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

Song, tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; chưa có tiền án, tiền sự. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, nên cần được xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt khi lượng hình.

[2] Về hình phạt bổ sung, theo khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ, … tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo có mức thu nhập thấp, không có tàisản riêng. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền  đối với bị cáo.

Trong vụ án này còn người đàn ông bán ma túy cho Trần Thanh T tại khu vực sân bóng thị trấn Y, huyện Y, nhưng quá trình điều tra không xác định được họ tên, tuổi, địa chỉ của người này. Vì vậy, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không đề cập xử lý.

[3] Về vật chứng: Sau khi giám định được hoàn trả đối tượng giám định còn lại gồm: A1= 0,0691gam mẫu và toàn bộ bao gói được niêm phong trongcùng một bao gói giấy “MẪU  TRẢ”, cần tịch thu tiêu hủy. 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 19B1-082.52 T sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy. Quá trình điều tra, xác định chiếc xe này thuộc sở hữu hợp pháp của anh Hồ Quang A, nhưng khi T sử dụng xe đi mua ma túy T không nói và anh A không biết, nên Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho anh A, nay anh A và bị cáo T đều không có yêu cầu gì. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết. 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung màu vàng trắng bị nứt vỡ màn hình là tài sản của bị cáo T, T không sử dụng vào việc phạm tội, trả lại cho T, nhưng cần tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Lạc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[5] Về án phí: Bị cáo Trần Thanh T phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trần Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt: Bị cáo Trần Thanh T 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19 tháng 11 năm 2018.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Tịch thu đối tượng còn lại sau giám định được hoàn lại, gồm: A1= 0,0691 gam mẫu và toàn bộ bao gói được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “MẪU TRẢ”, để tiêu hủy.

Trả lại cho bị cáo Trần Thanh T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung màu vàng trắng bị nứt vỡ màn hình, nhưng cần tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Trần Thanh T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:02/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Lạc - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về