Bản án 02/2019/HSST ngày 22/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 02/2019/HSST NGÀY 22/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 01 năm 2019 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Sốp Cộp, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 03/2018/HSST ngày 28 tháng 12 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2019/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 01 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Phạm Văn C, sinh năm 1988, nơi sinh, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La

Trú tại: Bản Hải Sơn 2, xã Chiềng Khoong, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt nam; Đảng phái: Không; Con ông Phạm Văn Luân; con bà Đào Thị Hiến; vợ là Lò Thị Mon; có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh sơn la từ ngày 10/10/2018 cho đến nay. Có mặt tại phiên toà.

Nhân thân: Năm 2007 bị xử về tội Chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, đã được xoá án tích, 2016 bị Toà án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, xử về tội Tàng trữ trái pháp chất ma tuý; được miễn trách nhiệm hình sự.

2. Họ và tên: Lò Văn D, sinh ngày 20 tháng 6 năm 1978, tại huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La

Nơi cư rú: Bản Nhụng Trên, xã Chiềng Nơi, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Chức vụ, đoàn thể, Đảng phái: Không; con ông: Lò Văn C, con bà: Lò Thị P (đã chết); vợ là Lò Thị T, sinh năm 1978; có 4 người con; tiền án. tiền sự: Không có; bị tạm giam từ ngày 10/10/2018 tại nhà tạm giữ Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên toà.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Họ và tên: Lò Thị Thân, sinh năm 1978, trú tại: Bản Nhụng Trên, xã Chiềng Nơi, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La; có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 22 giờ 50 phút ngày 09 tháng 10 năm 2018, Tổ công tác Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, phát hiện bắt quả tang Phạm Văn C, sinh năm 1988, trú tại: Bản Hải Sơn 2, xã Chiềng Khoong, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La và Lò Văn D, sinh năm 1978, trú tại bản Nhụng Trên, xã Chiềng Nơi, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ được: 01 gói nilon màu hồng, bên trong có chất bột màu trắng Cường và Dây khai nhận là Heroine, 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Hon da loại Wave RSX, biển kiểm soát 26B1 -176.19, xe đã qua sử dụng.

Ngày 10/10/2018 tại Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Sơn La, thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng thu giữ của Phạm Văn C Và Lò Văn D, ký hiệu CD.

Kết quả cân tịnh số bột màu trắng có khối lượng là 0,16 gam, trích toàn bộ 0,16 gam, ký hiệu CD1 làm mẫu giám định.

Kết luận giám định số: 1105 ngày 17/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu giám định ký hiệu CD1 là chất ma túy; Loại Heroine; Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,16 gam”.

Tại cơ Điều tra Công an huyện Sốp Cộp bị cáo Phạm Văn C và Lò Văn D,khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 9/10/2018, Lò Văn D một mình từ nhà ở bản NhụngTrên, xã Chiềng Nơi, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La đi xe máy biển kiểm soát26B1-176.19 của gia đình đến gặp Phạmn Văn Cở bản Hải Sơn 2 để xin ma tuý sử dụng, do C không có, nên C điều khiển xe mô tô của D trở D cùng đến bản Khua họ, xã Huổi Một, mua của một người tên là Thạo được một gói Heroine với só tiền 50.000 đồng, được ma tuý C Và D đã sử dụng một phần, còn lại C đưa cho D cất giữ và tiếp tục trở D đến xã Dồm Cang, huyện Sốp Cộp chơi, khi quay về đến địa phận bản Tà Cọ, xã Huổi Một thì bị công an huyện Sốp Cộp phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng như đã nêu trên.

Bản Cáo trạng số: 03/CT-VKS ngày 27 tháng 12 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp đã truy tố bị cáo Phạm Văn C và Lò Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo Phạm Văn C Và Lò Văn D, khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, có đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Phạm Văn C Từ 15 đến 20 tháng tù;

Lò Văn D : Từ 14 đến 18 tháng tù

Đề nghị Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo;

Về xử lý vật chứng và án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phần tranh luận các bị cáo C, D nhất trí với quan điểm của đại diện

Viện Kiểm sát, không có ý kiến tranh luận, chỉ xin được giảm nhẹ hình phạt. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Lò Thị T, vợ của bị cáo LòVăn D đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết được trả lại chiếc xe máy.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cở sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của các bị cáo, ý kiến của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Chứng cứ xác định tội danh: Tại phiên toà bị cáo Cường và Dây khai nhận, hồi 22 giờ 50 phút ngày 9/10/2018 bị công an huỵên Sốp Cộp bắt quả tang khi đang cất giấu 0,16 gam Heroine. Xét thấy; Lời khai của các bị cáo phù hợp với ; Biên bản bắt người phạm tội quả tang của Công an huyện Sốp Cộp lập hồi 22 giờ 50 phút ngày 9 tháng 10 năm 2018, Lời khai tại cơ quan Điều tra; Vật chứng của vụ án là chất ma túy, loại Heroine. Kết luận giám định ngày số 1105 ngày 17/10/2018, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ngày 9/10/2018 Phạm Văn Cường Và Lò Văn Dây đang cất giấu trái phép chất ma tuý có khối lượng 0,16 gam, loại Hêroine, mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang.

 [3] Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Phạm Văn C và Lò Văn D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, có khung hình phạt tù từ một năm đến năm năm. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp đã truy tố đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội.

 [4] Về tính chất mức độ hành vi phạm tội: hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã vi phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương nên cần xử lý nghiêm.

 [5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự;

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải, do đó, cần cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Để trừng trị đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội, cũng như công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy, cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định mới đảm bảo tính giáo dục các bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Về hình phạt bổ sung là phạt tiền: Hội đồng xét xử thấy các bị cáo không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

 [6] Đối với người đàn ông dân tộc Mông tên Thạo đã bán ma tuý cho các bị cáo vào ngày 9/10/2018. Trong giai đoạn điều tra Thạo không có mặt tại địa phương, ngoài lời khai của các bị cáo không còn căn cứ khác chứng minh, nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

 [7] Về xử lý vật chứng: 01 phong bì thư màu trắng niêm phong ban đầu; 01 chiếc phong bì màu trắng của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, đã niêm phong dán kín, mặt trước phong bì ghi: Vật chứng lưu kho vụ Phạm Văn C và Lò Văn D, không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu huỷ. 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Hon da, loại WAVE RSX, biển kiểm soát 26B1- 176.19, đã qua sử dụng là tài sản chung của gia đình bị cáo D cần trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là Lò Thị T.

 [8] Về án phí: Bị cáo Phạm Văn C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật; bị cáo Lò Văn D thuộc hộ nghèo của các năm 2016 đến năm 2018 cần áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết 326/2014/UBTVQH của UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016, để miễn khoản án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo: Phạm Văn C; Lò Văn D, phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Phạm Văn C 17(mười bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/10/2018.

Xử phạt: Lò Văn D 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/10/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu để tiêu huỷ: 01 (một) chiếc phong bì thư màu trắng của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, đã niêm phong kín. Mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ: Phạm Văn C, sinh năm 1988, tại bản Hải Sơn 2, xã Chiềng Khoong, huyện Sôg Mã, tỉnh Sơn La. Lò Văn D, sinh năm 1978, tại bản Nhụng trên, xã Chiềng Nơi, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, hành vi Tàng Trữ trái phép chất ma tuý bắt ngày 9/10/2018. Bên trong phong bì có: có 01(một) phong bì thư niêm phong ban đầu cùng 01 vỏ nilon màu hồng”, mặt sau phong bì trên phần giấy dán niêm phong có 06 chữ ký và 02 hình dấu đỏ của cơ quan Điều tra công an huyện Sốp Cộp.

- Trả lại cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Lò Thị T, sinh năm 1978, trú tại: Bản Nhụng Trên, xã Chiềng Nơi, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda, loại WAVE RSX, biển kiểm soát 26B1- 176.19; số máy: JA 38E0033090, số khung; 3801GY009695, xe đã qua sử dụng.

Những vật chứng trên theo biên bản giao, nhận vật chứng, tài sản lập ngày 28 tháng 12 năm 2018 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sốp Cộp và Công an huyện Sốp Cộp.

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Phạm Văn C phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Áp dụng điểm đ Điều 12 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày30/12/2016, miễn khoản án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn D.

4. Về quyền kháng cáo đối với Bản án: Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2019/HSST ngày 22/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:02/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về