Bản án 02/2019/HS-ST ngày 08/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 02/2019/HS-ST NGÀY 08/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 01 năm 2019, tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 707/2018/TLST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 6100/2018/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo:

Lỗ Trần Huy H, sinh năm 1992, tại TP.Hồ Chí Minh; Thường trú: 307 BD, Phường x, Quận T, TP. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; Nơi ở: 124/4/8 MC, Phường x, Quận T, thành phố Hồ Chí Minh; trình độ văn hóa: 0/12; dân tộc: Hoa; giới tính: nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: không rõ và bà: Lỗ Kiều A(chết); hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ con; tiền án: 02 tiền án; tiền sự: Không;

- Ngày 04/2/2010, bị Tòa án nhân dân Quận T xử phạt 02 (hai) năm tù giam về tội “Cướp giật T sản” (Bản án số 59/HSST/2010)

- Ngày 20/9/2012, bị Tòa án nhân dân Quận T xử phạt 04 (bốn) năm tù giam, về tội “Cướp giật T sản” (Bản án số 247/HSST/2012) Bị cáo bị bắt theo biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 30/4/2018 đến nay (Có mặt).

Bị hại: Ông LJH, sinh ngày: 10/7/1965, quốc tịch: HQ.

Nơi cư trú: số 5/2 Biệt thự Lucasta, Phường PH, Quận C, thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

- Người tham gia tố tụng khác:

Người có quyền lợi, nghiã vụ liên quan: Bà Lỗ Ngọc Đ, sinh năm: 1984;

Thường trú: 307 BD, Phường x, Quận T, thành phố Hồ Chí Minh.

Chỗ ở: 124/4/8 MC, Phường x, Quận T, thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các T liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng hơn 00 giờ ngày 27/7/2017, Lỗ Trần Huy H sử dụng xe Attila, biển số 59K1-106.40 chở Huỳnh Tấn T đang lưu thông trên đường Nguyễn Văn L , Quận B. H thấy ông LJH say xỉn ngồi trong xe taxi đang dừng ở làn đường ô tô trước nhà số 1417-1419 Nguyễn Văn L , MT3, khu phố 4, phường TP, Quận B. H chỉ cho T và rủ T trộm cắp T sản của ông LJH, T đồng ý. H dừng xe bên lề đường, làn xe máy cho T xuống xe đi bộ tiến đến gần xe taxi và mở cửa sau của xe bước vào trong, giả vờ sờ soạng ông LJH đang xay sỉn rồi móc túi lấy trộm được 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S6 màu vàng. Sau khi lấy được điện thoại, T liền quay ra xe kêu H bỏ chạy, trên đường đi T nói đã lấy được 01 điện thoại di động và đưa cho H giữ để đem bán lấy tiền chia nhau. Đến khoảng 09 giờ ngày 27/7/2017, H đem điện thoại trên đến bán cho cửa hàng điện thoại Bảo Ngọc do anh Phạm Văn Bảy làm chủ được số tiền 2.100.000 đồng, H chia cho T 1.050.000 đồng. Sau khi phát hiện bị chiếm đoạt T sản ông LJH đến Công an phường TP, Quận B trình báo sự việc.

Tại cơ quan điều tra, H và T đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình nhưng do chưa có định giá T sản nên đã cho gia đình bão lãnh về. Đến ngày 22/9/2017, Hội đồng định giá T sản trong tố tụng hình sự đã định giá chiếc điện thoại di động Samsung Galaxy S6 màu vàng là 5.500.000 đồng (theo Bản Kết luận định giá số 267/KL-HĐĐTTHS).

Ngày 05/10/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận B đã ra Lệnh truy nã đối với H và T do cả hai bỏ trốn. Đến ngày 30/4/2018, H bị Công an quận Thủ Đức bắt giữ trong một vụ án khác. Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận B, H đã khai nhận hành vi “Trộm cắp T sản” của mình vào ngày 27/7/2017).

Ngoài ra, H và T còn khai nhận trước đó vào ngày 21/7/2017, H và T cũng đã thực hiện 01 vụ trộm chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A7. Hiện vụ việc này đang được Công an quận Phú Nhuận thụ lý giải quyết.

Vật chứng thu giữ:

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105, màu xanh - đen (số seri 1: 356853074145188, số seri 2: 356853074145196 máy đã qua sử dụng) thu giữ Lỗ Trần Huy H.

+ 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S6 màu vàng không thu hồi được do H và T đã bán cho anh Phạm Văn Bảy và anh Bảy đã bán cho người khác.

+ 01 (điện thoại di động hiệu Nokia 105, màu xanh - đen số Imei: 356012087043506); 01 điện thoại Samsung J7 Prime màu vàng đồng, Imei 1: 353415089836897, Imei 2: 353416089836895 và số tiền 9.000.000 đồng (hiện đang gửi tại Kho bạc Quận 10) thu giữ của đối tượng Huỳnh Tấn T.

+ 01 xe gắn máy hiệu Honda vision, màu đỏ Biển số 59L2-175.31 số máy: JF58E-0229506, số khung RLHJF580EY229412, thu giữ của Lỗ Trần Huy H. Qua xác minh, chiếc xe trên do chị LTN đứng tên đăng ký xe. Năm 2017, chị Nhi bán xe cho anh Nguyễn Minh Tấn. Sau đó, anh Tấn bán lại chiếc xe trên cho bà Lỗ Ngọc Đ.

+ Chiếc xe Attila biển số 59K1-106.40, H sử dụng để chở T trộm cắp T sản vào ngày 27/7/2017 tại Quận B, H khai do mượn của bà ngoại tên là Lỗ Ngọc Đ. Qua xác minh, chiếc xe trên do bà D là chủ sở hữu. Sau đó, bà D cũng đã bán chiếc xe này cho một người không rõ lai lịch với giá 9.000.000 đồng nên không thu giữ được.

Về trách nhiệm dân sự: Ông LJH đã về nước nên chưa làm rõ được vấn đề dân sự.

Tại Bản cáo trạng số: 489/CT-VKS-P2 ngày 20/11/2018, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lỗ Trần Huy H về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm c, khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009;

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trình bày lời luận tội và đề nghị: Áp dụng điểm c, khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, xử phạt bị cáo Lỗ Trần Huy H từ 03 (ba) - 04 (bốn) năm tù và đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Lỗ Trần Huy H thừa nhận hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bị hại ông LJH đã về nước nên chưa làm rõ được vấn đề dân sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đánh giá hành vi, quyết định tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Đánh giá hành vi của bị cáo:

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cùng với các T liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở pháp lý kết luận: Vào khoảng hơn 00 giờ ngày 27/7/2017, H sử dụng xe Attila, biển số 59K1-106.40 chở T lưu thông trên đường Nguyễn Văn L, Quận B. Khi phát hiện ông LJH say xỉn ngồi trong xe taxi đang dừng ở làn đường ô tô trước nhà số 1417-1419 Nguyễn Văn L , MT3, khu phố 4, phường TP, Quận B. H đã rủ T trộm cắp T sản của ông LJH, T đồng ý. H dừng xe bên lề đường, làn xe máy để T xuống xe đi bộ tiến đến gần xe taxi, mở cửa sau xe bước vào trong, giả vờ sờ soạng, rồi móc túi ông LJH lấy trộm được 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S6 màu vàng. Sau đó, H đem điện thoại trên đến bán cho cửa hàng điện thoại Bảo Ngọc được số tiền 2.100.000 đồng, cả hai chia nhau tiêu xài. Khi phát hiện bị chiếm đoạt T sản, ông LJH đã đến Công an phường TP, Quận B trình báo sự việc. Theo Bản Kết luận định giá số 267/KL-HĐĐTTHS ngày 22/9/2017 của Hội đồng định giá T sản trong tố tụng hình sự thì chiếc điện thoại di động Samsung Galaxy S6 màu vàng có trị giá 5.500.000 đồng. Bị cáo H bị bắt theo biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 30/4/2018, bị cáo T bỏ trốn hiện cơ quan cảnh sát điều tra vẫn đang truy tìm.

Do đó, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Lỗ Trần Huy H đã phạm vào tội “Trộm cắp T sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Bị cáo đã từng có 02 tiền án về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án số 59/HSST/2010 và Bản án số 247/HSST/2012 của Tòa án nhân dân Quận T chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại khoản 2 Điều 53 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) do đó cần áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) để áp dụng đối với bị cáo.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của bị hại mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án đủ nghiêm mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo: Tại Cơ quan điều tra và cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: hiện nay Cơ quan điều tra vẫn chưa bắt được đối tượng đồng phạm trong vụ án là Huỳnh Tấn T đồng thời, bị hại - ông LJH đã về nước, vắng mặt tại phiên tòa nên chưa làm rõ được vấn đề dân sự. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi về trách nhiệm bồi thường dân sự cho bị hại theo đúng quy định của pháp luật, phần dân sự của vụ án sẽ được giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác khi có đủ căn cứ và yêu cầu.

[5] Về xử lý vật chứng:

+ Đối với 01 (điện thoại di động hiệu Nokia 105, màu xanh - đen số Imei: 356012087043506); 01 điện thoại Samsung J7 Prime màu vàng đồng, Imei 1: 353415089836897, Imei 2: 353416089836895 và số tiền 9.000.000 đồng (hiện đang gửi tại Kho bạc Quận 10) thu giữ của đối tượng Huỳnh Tấn Thiện T đang bỏ trốn, Cơ quan cảnh sát điều tra vẫn đang truy nã đối tượng do đó để đảm bảo cho công tác xử lý, giải quyết vật chứng theo đúng quy định của pháp luật nghĩ nên tiếp tục tạm giữ, khi có đủ căn cứ, cơ sở sẽ xử lý sau.

+ Đối với điện thoại di động hiệu Nokia 105, màu xanh - đen (Imei: 356853074145188, Imei 2: 356853074145196 máy đã qua sử dụng) không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án cần giao trả cho bị cáo Lỗ Trần Huy H.

+ 01 xe gắn máy hiệu Honda Vision, màu đỏ Biển số 59L2-175.31 số máy: JF58E-0229506, số khung RLHJF580EY229412, thu giữ của Lỗ Trần Huy H. Qua xác minh, chiếc xe trên do chị LTNđứng tên đăng ký xe. Năm 2017, chị Nhi bán xe cho anh Nguyễn Minh Tấn. Sau đó, anh Tấn bán lại chiếc xe trên cho bà Lỗ Ngọc Đ. Việc mua bán xe giữa anh Tấn và bà D có hợp đồng công chứng ủy quyền tại Văn phòng công chứng H Xuân. Từ khi mua xe của anh Tấn cho đến nay, bà D chưa làm thủ tục đăng ký sang tên. Bà D có cho Lỗ Trần Huy H là cháu ngoại mượn sử dụng, bà D không biết H sử dụng xe trên làm gì và chiếc xe bị Công an Quận B tạm giữ đến nay. Hiện bà D có yêu cầu xin được nhận lại chiếc xe trên. Xét thấy yêu cầu này của bà là phù hợp do đó nghĩ nên giao trả chiếc xe trên cho bà Lỗ Ngọc Đ.

+ Chiếc xe Attila biển số 59K1-106.40, H sử dụng để chở T trộm cắp tài sản vào ngày 27/7/2017 tại Quận B, H khai do mượn của bà ngoại tên là Lỗ Ngọc Đ. Qua xác minh, chiếc xe trên do bà D là chủ sở hữu. Sau đó, bà D cũng đã bán chiếc xe này cho một người không rõ lai lịch với giá 9.000.000 đồng nên không thu giữ được do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c, khoản 2, Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tuyên bố bị cáo Lỗ Trần Huy H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Lỗ Trần Huy H 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/4/2018.

- Căn cứ Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 phần yêu cầu bồi thường của ông LJH sẽ được giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác khi có yêu cầu.

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

+ Giao trả chiếc xe gắn máy hiệu Honda vision, màu đỏ Biển số 59L2- 175.31 số máy: JF58E-0229506, số khung RLHJF580EY229412 cho bà Lỗ Ngọc Đ.

+ Giao trả cho bị cáo Lỗ Trần Huy H điện thoại di động hiệu Nokia 105, màu xanh đen (Imei: 356853074145188, Imei 2: 356853074145196, máy đã qua sử dụng).

+ Giao Cục thi hành án dân sự tiếp tục tạm giữ số đồ vật, tài sản đã thu giữ của tượng Huỳnh Tấn T bao gồm: 01 (điện thoại di động hiệu Nokia 105, màu xanh- đen số Imei: 356012087043506); 01 điện thoại Samsung J7 Prime màu vàng đồng, Imei 1: 353415089836897, Imei 2: 353416089836895 và số tiền 9.000.000 đồng (hiện đang gửi tại Kho bạc Quận 10).

(Biên bản giao nhận tang tài vật số 139/19 ngày 07/01/2019 của Cục thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh)

- Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 13/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Bị cáo Lỗ Trần Huy H phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2019/HS-ST ngày 08/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:02/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về