Bản án 02/2019/HS-ST ngày 08/01/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KINH MÔN, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 02/2019/HS-ST NGÀY 08/01/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 129/2018/TLST-HS ngày 19 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 129/2018/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo: 

Vũ Quốc T, sinh năm 1987

Nơi ĐKHKTT: Khu B, thị trấn M, huyện K, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Quốc H và bà Phạm Thị H1; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 52/2015/HSST ngày 12/8/2015, Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hải Dương xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/8/2017; tiền sự: Không; nhân thân: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 48/2009/HSST ngày 21/10/2009, Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hải Dương xử phạt 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chấp hành xong toàn bộ bản án ngày 12/01/2010; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 05/9/2018, hiện tạm giam tại Trại tạm giam Kim Chi - Công an tỉnh Hải Dương; có mặt.

- Người có quyền lợi liên quan: Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1991

Địa chỉ: Thôn N, xã D, huyện K, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Trần Lê Q, sinh năm 1996

Địa chỉ: Khu H, thị trấn M, huyện K, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.

- Người chứng kiến:

Ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1957

Địa chỉ: Khu 2, thị trấn M, huyện K, tỉnh Hải Dương

Anh Phạm Thế Tr, sinh năm 1988

Nơi ĐKHKTT: Khu V, phường M, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh

Đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trưa ngày 29/8/2018, Vũ Quốc T đi xe ô tô khách đến khu vực đường tầu thuộc huyện AD, thành phố Hải Phòng mua của 01 người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ 01 túi ma túy dạng đá với giá 700.000 đồng, mục đích để sử dụng và nếu ai hỏi mua thì bán. Sau đó, T cất giấu ma túy trên người rồi đi xe ô tô khách về chỗ ở tại khu B, thị trấn M, huyện Kinh Môn (nhà của bố đẻ T là ông Vũ Quốc H thuê để bán hàng ăn). Chiều ngày 30/8/2018, T lấy một phần ma túy ra để sử dụng, còn lại T cho vào túi nilon kích thước khoảng (1,5x1,5)cm cất giấu trên người. Cùng lúc đó có các đối tượng Phạm Đức M, sinh năm 1991, Nơi ĐKHKTT: Thôn Th, xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương và Nguyễn Văn S, sinh năm 1991, tự khai ĐKHKTT tại: Xã D, huyện K, tỉnh Hải Dương có nhu cầu sử dụng ma túy đá nên đã nhờ Trần Lê Q, sinh năm 1996; nơi ĐKHKTT: Khu H, thị trấn M, huyện K, tỉnh Hải Dương đi mua ma túy hộ để sử dụng, Q đồng ý. Khoảng 16 giờ cùng ngày, khi T đang ở nhà thì Q đến gặp hỏi mua 01 túi ma túy đá với giá 200.000 đồng, T đồng ý. Q đưa cho T số tiền 200.000 đồng (gồm 02 tờ mệnh giá 100.000 đồng). T nhận tiền đút vào túi quần phía sau đang mặc, rồi lấy trên người ra 01 túi nilon, kích thước (1,5x1,5)cm bên trong đựng chất tinh thể màu trắng đưa cho Q. Q cầm gói ma túy vừa mua được đi đến nhà nghỉ B thuộc khu 2, thị trấn M, huyện K, tỉnh Hải Dương đưa cho S rồi Q đi về nhà.

Sau khi bán ma túy cho Q, T vào phòng ngủ lấy ma túy dạng đá và bộ đồ sử dụng ra sử dụng. Lúc này có Phạm Thế Tr1 (là em rể T) đi vào phòng. Thấy T đang sử dụng ma túy, Tr1 cũng lấy trong người ra một túi nilon đựng ma túy heroin ra sử dụng. Khi T và Tr1 đang sử dụng ma túy thì bị Tổ công tác thuộc Công an huyện K phát hiện bắt quả tang. Thu giữ tại túi quần phía sau của Vũ Quốc T số tiền 200.000 đồng (gồm 02 tờ mệnh giá 100.000 đồng), T khai là tiền vừa bán ma túy cho Q; thu giữ tại túi quần bên trái của Phạm Thế Tr1 01 túi nilon bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng và 01 gói giấy bạc bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng; thu tại phòng ngủ của T 01 bộ dụng cụ ma túy gồm 01 cóng thủy tinh, 01 chai nhựa loại 500ml, 01 đoạn ống hút.

Khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, Tổ công tác thuộc Công an huyện K tiến hành kiểm tra phòng 304 nhà nghỉ B phát hiện Phạm Đức M và Nguyễn Văn S đang sử dụng trái phép chất ma túy. Thu giữ tại mặt bàn uống nước 01 túi nilon kích thước (1,5 x 1,5)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, Nguyễn Văn S và Phạm Đức M khai nhận đó là chất ma túy do anh Q đưa cho; thu giữ 01 chai nhựa, 01 cóng thủy tinh, 01 đoạn ống hút và 01 bật lửa ga.

Tại bản Kết luận giám định số 531/TB-PC09 ngày 03/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất rắn (dạng tinh thể) màu trắng niêm phong trong phong bì ghi thu của Phạm Đức M và Nguyễn Văn S tại Nhà nghỉ B thuộc thị trấn M, huyện K, tỉnh Hải Dương, gửi đến giám định có khối lượng là 0,045 gam, là ma túy loại Methamphetamin.

Tại Kết luận giám định số 529/KLGĐ-PC54 ngày 01/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất bột (dạng cục) màu trắng, niêm phong trong phong bì ghi thu của Phạm Thế Tr1 gửi đến giám định có tổng khối lượng là 1,839 gam, là ma túy loại Heroine.

Tại Cáo trạng số 04/CT-VKSKM ngày 18/12/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kinh Môn truy tố bị cáo Vũ Quốc T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo khai nhận hành vi như đã nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kinh Môn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 27 đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 05/9/2018. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu cho hủy bỏ các dụng cụ sử dụng ma túy trái phép; tịch thu của bị cáo T số tiền 200.000 đồng sung quỹ Nhà nước. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Cơ quan điều tra Công an huyện Kinh Môn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kinh Môn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp lời khai của người có quyền lợi liên quan, người làm chứng, người chứng kiến; phù hợp nội dung biên bản vụ việc do Công an huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương lập hồi 17 giờ 00 phút và 19 giờ 40 phút ngày 30/8/2018, phù hợp với vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 16 giờ, ngày 30/8/2018, tại chỗ ở của Vũ Quốc T thuộc khu B, thị trấn M, huyện K, tỉnh Hải Dương, Vũ Quốc T có hành vi bán trái phép cho Trần Lê Q 01 gói ma túy có khối lượng 0,045 gam, là loại Methamphetamine lấy số tiền 200.000 đồng.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện vì tư lợi. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương truy tố đối với bị cáo là có căn cứ.

Đối với Phạm Thế Tr1: Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Kinh Môn đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự số 122 và quyết định khởi tố bị can số 207 ngày 02/9/2018 đối với Phạm Thế Tr1 về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự để điều tra trong vụ án khác nên không xem xét trong vụ án này.

[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo T đã bị kết tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và bị xử phạt 30 tháng tù theo bản án hình sự sơ thẩm số 52/2015/HSST ngày 12/8/2015 của Tòa án nhân dân huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/8/2017, chưa được xóa án tích lại phạm tội do cố ý nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận tội nên được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4]. Về nhân thân: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, có một tiền án; ngoài ra năm 2009 bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” và phải chấp hành hình phạt tù 08 tháng mặc dù đã được xóa án tích nhưng xác định bị cáo có nhân thân không tốt.

[5]. Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để trừng trị, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Xét tính chất hành vi bị cáo thực hiện và điều kiện kinh tế của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về vật chứng: Toàn bộ lượng ma túy thu giữ của các đối tượng M và S do bị cáo bán, cơ quan giám định không hoàn lại nên không đặt ra xem xét. Số tiền 200.000 đồng thu giữ của bị cáo T là tiền có được do bán trái phép chất ma túy nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước. Bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá thu giữ của bị cáo T và của anh Nguyễn Văn S không có giá trị sử dụng, cần tịch thu cho hủy bỏ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7]. Đối với ông Vũ Quốc H là chủ nhà không biết việc Phạm Thế Tr1, Vũ Quốc T sử dụng ma túy tại chỗ ở nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kinh Môn không xử lý. Đối với Trần Lê Q có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, Nguyễn Văn S có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy Công an huyện Kinh Môn đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 223/QĐ- XPVPHC ngày 01/12/2018 đối với Q và S. Đối với Phạm Đức M có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, trong quá trình làm việc tại Cơ quan điều tra, lợi dụng sơ hở đã bỏ trốn. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kinh Môn đã tiến hành xác minh tại xã T, huyện K xác định không có người nào có nhân thân, lý lịch như trên. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kinh Môn tiếp tục làm rõ xử lý sau nên không xét. Đối với người bán chất ma túy cho Vũ Quốc T, tài liệu điều tra không xác định được là ai, ở đâu, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Kinh Môn tiếp tục làm rõ xử lý sau nên không xét.

[8]. Về án phí: Bị cáo bị kết tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Quốc T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt chính: Xử phạt bị cáo 28 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 05/9/2018.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu cho hủy bỏ hai bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá gồm: 02 cóong thủy tinh, 02 chai nhựa, 02 đoạn ống hút nhựa và 01 bật lửa ga. Tịch thu của bị cáo Vũ Quốc T 200.000 đồng sung quỹ nhà nước (toàn bộ vật chứng hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kinh Môn quản lý).

Về án phí: Buộc bị cáo Vũ Quốc T phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án về những nội dung trực tiếp liên quan đến quyền lợi của mình trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2019/HS-ST ngày 08/01/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:02/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kinh Môn - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về