Bản án 02/2019/HNGĐ-ST ngày 30/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN ĐÔNG, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 02/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 5 năm 2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Điện Biên Đông xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 16/2019/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 3 năm 2019, về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2019/QĐXX-ST ngày 17 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ly Thị H - Sinh năm: 1985.

Nơi cư trú: Bản Keo Lôm I, xã Keo L, huyện Điện Biên Đ, tỉnh Điện Biên. Có mặt.

- Bị đơn: Mùa A Ch - Sinh năm: 1985.

Địa chỉ: Bản Bản Keo Lôm I, xã Keo L, huyện Điện Biên Đ, tỉnh Điện Biên.

(Hiện đang chấp hành hình phạt tù tại Đội 24, phân trại số 1, trại giam Tân Lập, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ). Vắng mặt có lý do.

- Người phiên dịch: Anh Tráng A Sang, sinh năm 1996.

Nơi cư trú: Tổ 10, thị trấn Điện Biên Đông, huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 25/3/2019 và quá trình xét xử, nguyên đơn chị Ly Thị H trình bày:

- Về hôn nhân: Chị Ly Thị H và anh Mùa A Ch kết hôn theo pháp luật vào ngày 30 tháng 03 năm 2002 tại UBND xã Keo L, huyện Điện Biên Đ, tỉnh Điện Biên trên tinh thần tự nguyện. Sau khi kết hôn, hai người đã xây dựng gia đình yên ấm và có với nhau 02 người con. Tuy nhiên, đến năm 2011 anh Mùa A Ch bị Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xử phạt 21 năm tù giam về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Đến nay chị Ly Thị H thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nữa vì anh Ch phải chấp hành án phạt tù 21 năm chị Hờ không thể chờ được và muốn sống cuộc sống riêng nên chị làm đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Điện Biên Đông xem xét giải quyết cho chị ly hôn với anh Mùa A Ch.

- Về con chung: Hai người có 02 con chung là các cháu: Mùa A M, sinh ngày 25/10/2005; Mùa Thị T, sinh ngày 08/3/2007.

Hiện nay, cả hai cháu đang sống cùng với chị Ly Thị H, Bản Keo Lôm I, xã Keo L, huyện Điện Biên Đ, tỉnh Điện Biên. Sau khi ly hôn chị Ly Thị H có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các cháu vì các cháu đang còn nhỏ và không yêu cầu anh Mùa A Ch cấp dưỡng nuôi các con vì anh Ch đang phải chấp hành án không có điều kiện.

- Về tài sản chung, riêng; nợ chung, nợ riêng: Không có không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai đề ngày 17/4/2019, bị đơn Mùa A Ch trình bày:

- Về hôn nhân: Anh thừa nhận về thời gian, điều kiện, hoàn cảnh kết hôn như chị Ly khai là đúng. Anh cũng cho rằng nguyên nhân dẫn đến việc chị Hờ làm đơn ly hôn là do anh vi phạm pháp luật bị Tòa án xử phạt 21 năm tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Vì những lý do nêu trên anh đồng ý ly hôn với chị Ly Thị H vì do bản thân phải chấp hành án không thể chăm sóc cho vợ và các con.

- Về con chung: Vợ chồng anh chị có 02 con chung là Mùa A M, sinh ngày 15/10/2005; Mùa Thị T, sinh ngày 08/3/2007 như chị Ly Thị H đã trình bày. Sau khi ly hôn anh nhất trí để chị Hờ nuôi hai cháu và anh không phải cấp dưỡng cho các con.

- Về tài sản chung, riêng; nợ chung, nợ riêng: Giữa anh và chị Ly Thị H không có. Nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Người có quyền và lợi ích được bảo vệ: Các cháu Mùa A M, Mùa Thị T có đơn đề nghị gửi đến Tòa án thể hiện nguyện vọng của cháu là được ở với mẹ.

* Kiểm sát viên tham dự phiên tòa có ý kiến: Về thủ tục tố tụng thì Thẩm phán và các thành phần của HĐXX, những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật;

- Về nội dung vụ án đại diện Viện kiểm sát đề nghị: Áp dụng các Điều 51, 56, 58, 82, 83, và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, các Điều 35, 39, 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí của Tòa án. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ly Thị H về việc ly hôn, chị được ly hôn với anh Mùa A Ch;

Về con chung: Giao các cháu Mùa A M và Mùa Thị T cho chị Hờ trực tiếp nuôidưỡng, chăm sóc các con cho đến khi đủ tuổi thành niên. Anh Ch không phải cấp dưỡng nuôi con; Anh Mùa A Ch có quyền thăm con, chăm sóc con, không ai được quyền ngăn cản. Vì lợi ích của các con, quyền nuôi con và cấp dưỡng nuôi con có thể được thay đổi sau ly hôn khi có yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Bị đơn có đơn xin vắng mặt trong các buổi làm việc với Tòa án và xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa vì lý do đang chấp hành hình phạt tù tại Đội 24, phân trại số 1, trại giam Tân Lập, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung vụ án:

- Xét yêu cầu ly hôn của chị: Ly Thị H và anh Mùa A Ch đã đăng ký kết hôn theo giấy Chng nhận kết hôn số 16, ngày 30/3/2002 tại UBND xã Keo Lôm, huyện Điện Biên Đông theo đúng quy định của pháp luật trên tinh thần tự nguyện. Như vậy, HĐXX thấy rằng hôn nhân của hai anh chị đã xác lập kể từ ngày 30/3/2002 là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

Nay, chị Ly Thị H yêu cầu ly hôn anh Mùa A Ch đã đồng ý. Tuy nhiên, HĐXX thấy rằng anh Mùa A Ch đang chấp hành hình phạt tù với mức án 21 năm tù giam, đến nay còn phải chấp hành gần 13 năm tù giam nữa, vì vậy, trong khoảng thời gian dài anh Ch không thể thực hiện được nghĩa vụ của một người chồng; bản thân chị Hờ cũng không còn tình cảm với anh Ch, chị Hờ mong muốn được ly hôn với anh Ch điều đó Chng tỏ cuộc sống hôn nhân của hai vợ chồng đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vây, HĐXX cần chấp nhận cho chị Hờ được ly hôn với anh Ch.

- Về con chung: Hai người có 02 con chung là Mùa A M, sinh ngày 15/10/2005; Mùa Thị T, sinh ngày 08/3/2007: Hiện các cháu đang ở cùng chị Hờ tại Bản Keo Lôm I, xã Keo L, huyện Điện Biên Đ, tỉnh Điện Biên. Hiện nay, anh Ch đang chấp hành hình phạt tù, vì vậy, không thể thực hiện được quyền và nghĩa vụ của một người cha, mặt khác, cháu Mùa A M và Mùa Thị T đều có nguyện vọng muốn ở cùng với mẹ. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của các cháu cần chấp nhận là giao các cháu Mùa A M, Mùa Thị T cho chị Ly Thị H trực tiếp chăm sóc, giáo dục và không buộc anh Mùa A Ch phải cấp dưỡng nuôi con theo các Điều 81; 82; 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều này vừa hợp tình, hợp lý và hợp với nguyện vọng hai bên và các cháu.

Quyền nuôi con có thể được thay đổi theo quy định tại Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình 2014 khi có yêu cầu.

- Về tài sản chung, riêng; nợ chung, nợ riêng của vợ chồng: Các đương sự khai không có nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về án phí: Quá trình giải quyết vụ án chị Ly Thị H có đơn xin miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí. Tại phiên tòa chị tiếp tục đề nghị HĐXX xem xét miễn tiền án phí DSTT cho chị, bởi vì, bản thân và gia đình chị là người dân tộc Mông đang cư trú tại xã Keo Lôm nơi có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Vì vậy, cần áp dụng Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét miễn toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm cho chị Ly Thị H là phù hợp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56; Các Điều 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chị Ly Thị H được ly hôn với anh Mùa A Ch.

2. Về con chung: Giao các cháu là Mùa A M, sinh ngày 15/10/2005; Mùa Thị T, sinh ngày 08/3/2007 cho chị Ly Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Anh Mùa A Ch không phải cấp dưỡng nuôi con.

Quyền nuôi con và cấp dưỡng nuôi con có thể được thay đổi sau ly hôn khi có yêu cầu.

3. Về án phí: Chị Ly Thị H được miễn án phí DSTT.

Án xử sơ thẩm công khai kết thúc cùng ngày. Báo cho chị Ly Thị H biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay (ngày 30/5/2019). Anh Mùa A Ch được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2019/HNGĐ-ST ngày 30/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:02/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên Đông - Điện Biên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về