Bản án 02/2019/HNGĐ-ST ngày 29/01/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 02/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/01/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 29/01/2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 168/2018/TLST- HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2018 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2019/QĐSXXST- HNGĐ ngày 07 tháng 01 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2019/QĐST- HNGĐ ngày 24 tháng 01 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1982

Nơi ĐKHKTT: Thôn C, xã M, huyện X, tỉnh Thái Bình. Chỗ ở hiện nay: Thôn Th, xã H, huyện X, tỉnh Thái Bình.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Tiến D, sinh năm 1983

3.Người làm chứng: Bà Phạm Thị T, sinh năm 1942

Đều cư trú: Thôn C, xã M, huyện X, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị M trình bày:

Chị và anhNguyễn Tiến D tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại UBND xã M, huyện X vào ngày 29/4/2011. Cuộc sống sau khi kết hôn không được hạnh phúc, thường xuyên phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh D không chịu khó lao động, hay coi thường chị và gia đình chị, nhiều lần chị về nhà bố mẹ đẻ ở, những lần đó anh D hứa sẽ sửa chữa nên chị lại quay về. Tuy nhiên do anh D không những không thay đổi mà còn đối xử với chị càng tệ hơn, nên chị đã đưa con về quê ở từ tháng 2/2018. Từ đó anh D không tìm gọi cũng không liên lạc với chị. Khi Tòa án gửi giấy báo cho anh D, anh có trao đổi với chị đồng ý ly hôn, nhường quyền nuôi con cho chị song sẽ không đến Tòa án làm việc. Chị không còn T cảm với anh D, không trở về đoàn tụ được nên vẫn giữ yêu cầu xin ly hôn.

Về con chung: Chị và anh D có một con chung tên Nguyễn Bảo Ng, sinh ngày19/5/2012. Chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh D góp tiền cấp dưỡng. Hiện chị là công nhân tại công ty may Sơn Hà, địa chỉ xã M, huyện X thu nhập khoảng 6.000.000 đồng/ tháng.

Về tài sản và nợ chung: không có,

Sau khi thụ lý vụ án, anhNguyễn Tiến D đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, nhưng không đến làm việc.

Bà Phạm Thị T là mẹ đẻ của anh D trình bày: Anh D đi lao động tự do ở tỉnh ngoài, thỉnh thoảng có về nhà, thường liên lạc với gia đình qua điện thoại. Ngày 11/12/2018 bà nhận được văn bản của Tòa án gửi cho anh D, bà đã thông báo lại nội dung cho anh D biết. Anh D nhất trí ly hôn, nhường quyền nuôi con cho chịM, về tài sản và nợ chung không có. Sau đó anh D gửi đơn đề nghị qua đường bưu điện để bà nộp cho Tòa án.

Kết quả xác minh tại UBND xã M, huyện X thể hiện: Quá trình chung sống tại địa phương anh D và chịM thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng về quan điểm sống. ChịM đã nhiều lần bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở rồi lại quay về. Từ khoảng tháng 2/2018 chịM cùng con về quê ở luôn. Đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương phát biểu quan điểm:

Thẩm phán, HĐXX và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ quy định tại các Điều 70,71 của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn chưa thực hiện các quyền và nghĩa vụ quy định tại các Điều 70,72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Nguyễn Thị M được ly hôn anhNguyễn Tiến D; về con chung giao con chung Nguyễn Bảo Ng, sinh ngày19/5/2012 cho chịM trực tiếp nuôi dưỡng, chịM không yêu cầu anh D góp tiền cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung không giải quyết trong vụ án này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Chị Nguyễn Thị M khởi kiện xin ly hôn anhNguyễn Tiến D, có nơi cư trú tại xã Quang Minh, huyện Kiến Xương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ nên Viện kiểm sát nhân huyện Kiến Xương tham gia phiên tòa là đúng với quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Bị đơn anhNguyễn Tiến D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do. Vì vậy căn cứ vào khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

- Về nội dung vụ án:

[4] Về quan hệ hôn nhân: ChịM và anh D tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký tại UBND xã M, huyện X là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Anh chị thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, anh D thiếu quan tâm đến gia đình. Anh chị đã sống ly thân khoảng một năm, không còn quan tâm đến nhau. ChịM xin ly hôn, anh D cũng nhất trí, chứng tỏ giữa anh chị không còn tình cảm, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của chị M, xử cho chị được ly hôn anhNguyễn Tiến D là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[5] Về quan hệ con chung: ChịM và anh D có một con chung tên Nguyễn Bảo Ng, anh D nhường quyền nuôi con cho chịM. Xét thấy anh D thường đi làm xa nhà không có điều kiện chăm sóc con, chịM có công việc ổn định, có nhiều thời gian hơn anh D, do vậy cần chấp nhận yêu cầu của chịM, ý kiến của đại diện VKS giao con chung cho chịM trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình. Ghi nhận sự tự nguyện của chịM về việc không yêu cầu anh D góp tiền cấp dưỡng nuôi con. Anh D có quyền thăm nom con chung.

 [6] Về quan hệ tài sản chung: ChịM khai không có, Tòa án không ghi được lời khai của anh D, vì vậy về quan hệ tài sản chung không giải quyết trong vụ ánnày.

 [7] Về án phí: Chị Nguyễn Thị M phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng các Điều 56, 81,82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

- Áp dụng khoản 4 Điều 147, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị M được ly hôn anhNguyễn Tiến D.

2. Về quan hệ con chung: Giao con chung Nguyễn Bảo Ng, sinh ngày 19/5/2012 cho chịM trực tiếp nuôi dưỡng, chịM không yêu cầu anh D góp tiền cấp dưỡng nuôi con. Anh D có quyền thăm nom con chung.

3. Về quan hệ tài sản chung: không giải quyết trong vụ án này.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị M phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) chịM đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001179 ngày 10 tháng 12 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Kiến Xương, Chị M đã nộp đủ án phí.

Chị Nguyễn Thị M có mặt tại phiên tòa được quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 29/01/2019, anhNguyễn Tiến D vắng mặt tại phiên tòa được quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2019/HNGĐ-ST ngày 29/01/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:02/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về