Bản án 02/2019/HNGĐ-ST ngày 21/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 02/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/06/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 01/2019/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 01 năm 2019, về việc:“Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 5 năm 2019 và Quyết định Hoãn phiên tòa số: 01/2019/QĐST-DS ngày 29 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Trúc M, sinh năm 1987; địa chỉ cư trú: Thôn L 2, xã C, huyện T, tỉnh Ninh Thuận (Có mặt).

2. Bị đơn: Anh Lê Tấn H, sinh năm 1980; địa chỉ cư trú: Thôn L 2, xã C, huyện T, tỉnh Ninh Thuận (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Trúc M trình bày: Chị và anh Lê Tấn H tự tìm hiểu nhau và đi đến hôn nhân có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận vào ngày 22/3/2006. Quá trình chung sống lúc đầu hạnh phúc, về sau mâu thuẫn gia đình xảy ra không thể hàn gắn được. Nguyên nhân là do anh H không có trách nhiệm với vợ con, thường hay ăn nhậu không lo làm ăn để sinh sống và chăm lo nuôi dạy con cái, mặc dù chị đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh H không nghe và tự ý bỏ nhà sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay. Hiện nay tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H. Vợ chồng có 02 con chung tên Lê Thị Ngọc L, sinh ngày 13/5/2006 và Lê Tuyên D, sinh ngày 29/12/2008. Từ khi vợ chồng không còn sống chung với nhau thì các con đang ở với chị, nếu ly hôn chị yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay chị đang làm công nhân may ở xã V, huyện P, tỉnh Bình Thuận có thu nhập bình quân hơn 4.000.000 đồng/tháng đảm bảo cho việc nuôi con, còn anh H không có nghề nghiệp ổn định. Tài sản chung, nợ chung chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị tự nguyện xin chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

Trong suốt quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, Tòa án đã tống đạt hợp lệ cho bị đơn anh Lê Tấn H, nhưng anh H vẫn không có văn bản nêu ý kiến và cố tình không đến Tòa án.

Phát biểu của kiểm sát viên tại phiên tòa:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng; bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Trúc M; giao cho chị M được quyền nuôi 02 con chung tên Lê Thị Ngọc L, sinh ngày 13/5/2006 và Lê Tuyên D, sinh ngày 29/12/2008; anh H không phải cấp dưỡng nuôi con; chị M phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Chị Nguyễn Thị Trúc M khởi kiện yêu cầu giải quyết ly hôn anh Lê Tấn H và yêu cầu giải quyết nuôi con chung. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 và Điều 195 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án là "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Ninh Thuận.

[2]. Về sự vắng mặt của bị đơn: Anh Lê Tấn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh H.

[3]. Nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Trúc M và anh Lê Tấn H được xây dựng trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên được xác định là hôn nhân hợp pháp.

- Về tình trạng hôn nhân:

Tại phiên tòa chị Nguyễn Thị Trúc M kiên quyết xin được ly hôn với anh Lê Tấn H do mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng. Trong cuộc sống anh H không có trách nhiệm với vợ con, thường hay ăn nhậu không lo làm ăn để sinh sống và chăm lo nuôi dạy con cái. Chị M và anh H không sống chung từ năm 2015 cho đến nay.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cũng đã đến nhà anh H để tống đạt các thủ tục cho anh H nhưng anh H không có ở nhà nên Tòa án đã làm thủ tục niêm yết tại nhà anh H, Ủy ban nhân dân xã nơi anh H cư trú và Tòa án nhưng anh H không tới Tòa án để giải quyết và cũng không có ý kiến gì đối với yêu cầu xin ly hôn của chị M. Như vậy, Tòa án đã thực hiện đúng thủ tục tống đạt cho anh H nhưng anh H vẫn cố tình vắng mặt. Điều này thể hiện anh H không có thiện chí đoàn tụ và cũng không tha thiết bảo vệ hạnh phúc gia đình. Chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị M và anh H mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu xin ly hôn của chị M là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

- Về quan hệ con chung:

Vợ chồng chị Nguyễn Thị Trúc M và anh Lê Tấn H có 02 con tên Lê Thị Ngọc L, sinh ngày 13/5/2006 và Lê Tuyên D, sinh ngày 29/12/2008. Từ khi vợ chồng không còn sống chung với nhau cho đến nay, chị M là người đang trực tiếp nuôi con và nguyện vọng của các con là xin được ở với mẹ nếu cha mẹ ly hôn. Để đảm bảo ổn định cuộc sống và nguyện vọng của các con, vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy việc giao 02 con cho chị M tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị M không yêu cầu anh Hoàng cấp dưỡng nuôi con là tự nguyện và phù hợp với quy định pháp luật.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định tại Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét đến.

- Về án phí: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội 14 thì chị Nguyễn Thị Trúc M phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, 57, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 195, Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội 14.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Trúc M và anh Lê Tấn H.

2. Về con chung: Giao 02 con tên Lê Thị Ngọc L, sinh ngày 13/5/2006 và Lê Tuyên D, sinh ngày 29/12/2008 cho chị Nguyễn Thị Trúc M trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Lê Tấn H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Trúc M phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) mà chị M đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0016362 ngày 03 tháng 01 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T. Chị M đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 21/6/2019). Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2019/HNGĐ-ST ngày 21/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:02/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Bắc - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về