Bản án 02/2019/HNGĐ-ST ngày 06/12/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HỒNG BÀNG - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 02/2019/HNGĐ-ST NGÀY 06/12/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG VÀ CẤP DƯỠNG NUÔI CON SAU KHI LY HÔN

Ngày 06 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Hồng Bàng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 228/2019/TLST-HNGĐ, ngày 13 tháng 8 năm 2019, về tranh chấp về ly hôn và nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 15 tháng 11 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 44/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 28 tháng 11 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị NTT, sinh năm 1983; địa chỉ: Số nhà 187A, Đường A, phường B, quận C, Hải Phòng; có mặt.

2. Bị đơn: Anh DDH, sinh năm 1983; địa chỉ: Số nhà 187A, Đường A, phường B, quận C, Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn (chị NTT) trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Tôi và anh DDH xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND phường B, quận C, thành phố Hải Phòng, vào ngày 07-12-2009. Vợ chồng chung sống đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do không hợp nhau về tính cách, bất đồng về quan điểm sống quá sâu sắc. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng và không có cách khắc phục.

Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, tình cảm vợ chồng thực sự không còn và không thể tiếp tục chung sống đoàn tụ được nữa nên tôi yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh DDH.

Về con chung: Có hai con chung tên là D, sinh ngày 11-11-2011 và E, sinh ngày 22-8-2015. Ly hôn, tôi đề nghị được nuôi cả hai con chung. Khoản tiền cấp dưỡng nuôi con thì tôi và anh DDH sẽ tự thỏa thuận và tự giao cho nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về phía bị đơn (anh DDH): Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án để bị đơn thực hiện việc trình bày bản tự khai đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nhưng bị đơn không gửi bản tự khai đến Tòa án. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã hai lần tiến hành triệu tập (ngày 13-9-2019 và 15-10-2019), hai lần thông báo phiên hòa giải (ngày 22-10-2019 và 28-10-2019) và tống đạt hợp lệ cho bị đơn nhưng bị đơn không có mặt tại các phiên hòa giải.

Tại phiên tòa, mặc dù đã được Tòa án tiến hành triệu tập hợp lệ nhưng bị đơn vẫn vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do.

Đi diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Về thẩm quyền thụ lý giải quyết vụ án của Tòa án, tư cách tham gia tố tụng của các đương sự, việc thu thập chứng cứ của Tòa án đều tuân thủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết và tại phiên tòa của Thẩm phán và Hội đồng xét xử đều đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Sự tuân thủ chấp hành pháp luật của nguyên đơn đảm bảo đúng quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự, bị đơn chưa tuân thủ đúng quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự.

Về nội dung giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng các điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Về quan hệ vợ chồng: Chị NTT được ly hôn với anh DDH.

- Về con chung: Giao cho chị NTT được nuôi hai con là D, sinh ngày 11-11-2011 và E, sinh ngày 22-8-2015. Khoản tiền cấp dưỡng nuôi con hàng tháng do hai bên tự thỏa thuận và tự giao cho nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Chị NTT phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xem xét tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Sau khi ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa, Tòa án đã tiến hành tống đạt và triệu tập hợp lệ đối với bị đơn (anh DDH) nhưng bị đơn vẫn vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị NTT và anh DDH kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại U ban nhân dân phường B, quận C, thành phố Hải Phòng (Giấy chứng nhận kết hôn số 99, quyển số 01, ngày 07-12-2009).

[3] Theo nguyên đơn (chị NTT) trình bày: Quá trình vợ chồng chung sống đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do hai bên không hợp nhau về tính cách và bất đồng trong quan điểm sống quá sâu sắc. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng thêm và không có khả năng khắc phục. Vợ chồng không còn quan tâm đến nhau và không còn quan hệ tình cảm với nhau nữa. Xét thấy tình cảm vợ chồng thực sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị NTT yêu cầu được ly hôn với anh DDH.

[4] Đối với bị đơn: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng đối với bị đơn như đã nêu ở phần trên của bản án nhưng bị đơn không tuân thủ các quy định về quyền và nghĩa vụ của bị đơn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Điều này thể hiện việc bị đơn có thái độ không thiện chí muốn cải thiện quan hệ vợ chồng và cũng chứng tỏ quan hệ vợ chồng giữa chị NTT và anh DDH đã đến mức trầm trọng, vợ chồng không còn quan tâm đến nhau và không còn tình cảm đối với nhau, mục đích của hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Do vậy việc nguyên đơn (chị NTT) khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bị đơn (anh DDH) là có căn cứ, phù hợp với quy định tại các Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình. Hội đồng xét xử xét thấy đã có đủ cơ sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị NTT; xử chị NTT được ly hôn với anh DDH.

[5] Về con chung: Có hai con là D, sinh ngày 11-11-2011 và E, sinh ngày 22-8-2015. Chị NTT yêu cầu được nuôi cả hai con. Khoản tiền cấp dưỡng nuôi con chung hàng tháng sau khi ly hôn do hai bên tự thỏa thuận và tự giao cho nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6] Hội đồng xét xử xét thấy: Anh DDH không có văn bản thể hiện ý kiến của mình về việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con. Tại đơn đề nghị cháu D có nguyện vọng muốn được sinh sống cùng mẹ, còn cháu E hiện chưa đủ 7 tuổi. Xét thấy cần giao cho chị NTT trực tiếp nuôi cả hai con chung là phù hợp với nguyện vọng của con chung và đảm bảo được quyền lợi về mọi mặt của các con chung. Bởi vậy, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, giao hai con là D và E cho chị NTT trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với thực tế và phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[7] Việc cấp dưỡng nuôi con chung sau khi ly hôn do nguyên đơn có ý kiến được tự thỏa thuận đối với bị đơn và tự giao cho nhau, không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[8] Về tài sản chung: Các đương sự đều không có yêu cầu Tòa án giải quyết phân chia tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[9] Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị NTT phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; xử:

- Về quan hệ vợ chồng: Chị NTT được ly hôn với anh DDH.

- Về con chung: Giao hai con là D, sinh ngày 11-11-2011 và E, sinh ngày 22-8-2015 cho chị NTT trực tiếp nuôi dưỡng. Thời hạn nuôi con cho đến khi các con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo qui định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn do chị NTT và anh DDH tự thỏa thuận, tự giao cho nhau và không yêu cầu giải quyết nên Toà án không xem xét giải quyết.

Ngưi trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Ngưi không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Chị NTT phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp khi khởi kiện tại biên lai ký hiệu AA/2014, số 0008312, ngày 13-8-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng; chị NTT đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

357
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2019/HNGĐ-ST ngày 06/12/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn

Số hiệu:02/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hồng Bàng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về