Bản án 02/2019/HNGĐ-ST ngày 05/04/2019 về tranh chấp về ly hôn và nuôi con 

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DUYÊN HẢI, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 02/2019/HNGĐ-ST NGÀY 05/04/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON 

Trong ngày 05 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số12/2019/TLST- HNGĐ, ngày 23 tháng 01 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Võ Thị Ngọc T, sinh năm 1993; cư trú tại ấp B, xã T, thị xã D, tỉnh Trà Vinh.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1989; cư trú tại ấp B, xã T, thị xã D, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 18 tháng 01 năm 2019 và quá trình giải quyết vụ án bà Võ Thị Ngọc T là nguyên đơn trình bày: Bà với ông Nguyễn Văn V tự nguyện tiến đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới vào năm 2012, không có đăng ký kết hôn. Sau ngày cưới vợ chồng bà sống chung với gia đình bà được khoảng 04 tháng bà về gia đình bà sống, ông V phụ nuôi tôm gia đình ông. Đến năm 2013 phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên vợ chồng cự cãi ly thân một năm thì ông bà hàn gắn trở về tiếp tục chung sống đến tháng 10 năm 2018 xảy ra mâu thuẫn do bà nghi kỵ ông V có mối quan hệ bất chính với người phụ nữ khác, bà đã nhiều lần khuyên ngăn ông V nghĩ đến gia đình nhưng ông V không nghe vẫn còn qua lại với người phụ nữ khác. Nay bà xét thấy không còn tình cảm với ông V, nếu tiếp tục chung sống cũng không hạnh phúc.

Nay bà Võ Thị Ngọc T yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Văn V.

- Về con chung: Trong quá trình chung sống bà và ông V có 01 con chung là Võ Thị Ngọc H, sinh ngày 18/01/2013. Bà yêu cầu tiếp tục nuôi con và không yêu cầu anh Nguyễn Văn V cấp dưỡng nuôi con..

- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết

- Về nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Nguyễn Văn V trình bày trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay: Sau khi được sự đồng ý của hai bên cha mẹ, ông với bà T tự nguyện tiến đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới vào năm 2012, không có đăng ký kết hôn.Vợ chồng ông sống hạnh phúc đến tháng 10/2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bà T ghen tuông nghi kỵ xúc phạm đến ông dẫn đến vợ chồng thường xuyên cự cãi, bất hòa. Ông thừa nhận có đi chơi cùng bạn bè và có hứa không qua lại với người phụ nữ mà bà T nghi kỵ nhưng bà T không tin tưởng. Từ khi ly thân tháng 10/2018 cho đến nay ông có gặp bà T ngồi lại để bàn bạc hàn gắn đăng ký kết hôn trở về tiếp tục chung sống nhưng không đạt được và ly thân đến nay. Nay ông không đồng ý ly hôn bà Võ Thị Ngọc T.

- Về con chung: Có 01 con chung là Võ Thị Ngọc H, sinh ngày 18/01/2013. Ông đồng ý giao con cho bà Võ Thị Ngọc T tiếp tục nuôi dưỡng và không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết

- Về nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền của Tòa án: Nguyên đơn bà Võ Thị Ngọc T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với bị đơn Nguyễn Văn V. Căn cứ khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự yêu cầu của bà T là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn ông Nguyễn Văn V có nơi cư trú ấp B, xã T, thị xã D, tỉnh Trà Vinh nên Tòa án nhân dân thị xã Duyên Hải có thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ án theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Võ Thị Ngọc T và ông Nguyễn Văn V tự nguyện xác lập hôn nhân, không có đăng ký kết hôn. Tại phiên hòa giải ngày 28/02/2019 đã tiến hành hòa giải động viên hai bên đoàn tụ về đăng ký kết hôn để chung sống với nhau, nhưng bà T trình bày không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa và không đồng ý đoàn tụ.

Vì vậy theo quy định tại khoản 1 Điều 14 và khoản 2 Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng..” và “ Trường hợp không có đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật này…”.

Từ sự phân tích trên, Hội đồng xét xử có đầy đủ căn cứ để không công nhận bà Võ Thị Ngọc T và ông Nguyễn Văn V là quan hệ vợ chồng.

[3]Về con chung: Bà Võ Thị Ngọc T và ông Nguyễn Văn V có 01 con chung tên Võ Thị Ngọc H, sinh ngày 18/01/2013 .Trong quá trình hòa giài và tại phiên tòa ông V đồng ý giao con chung cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Mặc dù Tòa án đã có phân tích về việc người không trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con phải cấp dưỡng dưỡng nuôi con, nhưng bà T vẫn không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung: Bà Võ Thị Ngọc T và ông Nguyễn Văn V không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

[6] Về nợ chung: Bà Võ Thị Ngọc T và ông Nguyễn Văn V khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

[7] Về án phí: Bà Võ Thị Ngọc T có nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ các Điều 9, 14, 53, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1.Về hôn nhân:Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Võ Thị Ngọc T và ông Nguyễn Văn V.

2.Về con chung: Công nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa bà Võ Thị Ngọc T và ông Nguyễn Văn V. Giao con chung Võ Thị Ngọc H, sinh ngày 18/01/2013 cho bà Võ Thị Ngọc T tiếp tục nuôi dưỡng.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể thay đổi người nuôi con .

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Võ Thị Ngọc T không yêu cầu ông Nguyễn Văn V cấp dưỡng nuôi con là Võ Thị Ngọc H, nên Tòa án không xét đến.

4. Về tài sản chung: Bà Võ Thị Ngọc T và ông Nguyễn Văn V không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xét đến.

5. Về nợ chung: Bà Võ Thị Ngọc T và ông Nguyễn Văn V khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xét đến.

6.Về án phí: Buộc bà Võ Thị Ngọc T phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số0019569 ngày 21 tháng 01năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh, bà T đã nộp đủ án phí.

7.Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn bà Võ Thị Ngọc T và bị đơn ông Nguyễn Văn V có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2019/HNGĐ-ST ngày 05/04/2019 về tranh chấp về ly hôn và nuôi con 

Số hiệu:02/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Duyên Hải - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về