Bản án 02/2019/DSST/HNGĐ ngày 14/03/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BỈM SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 02/2019/DSST/HNGĐ NGÀY 14/03/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 14 tháng 3 năm 2019 tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số: 160/2018/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 10 năm 2018 về tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/QĐXX ngày 13/02/ 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L sinh năm 1985

Trú tại: Thôn X, Xã Q , thị xã B , tỉnh T ( có mặt).

2. Bị đơn: Anh Hồ Viết V sinh năm 1979

Trú tại: Thôn Y , Xã Q , thị xã B , tỉnh T ( vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 12 /9/2018, bản tự khai ngày 05 tháng 10 năm 2018, biên bản lấy lời khai ngày 12/11/2018 và quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị L trình bày: Chị và anh Hồ Viết V kết hôn với nhau vào năm 2003, đăng ký kết hôn tại UBND xã Q, thị xã B, tỉnh T. Hai bên đến với nhau trên cơ sở tự nguyện. Quá trình chung sống được hạnh phúc đến năm 2005 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh V thường xuyên bỏ đi mà chị không biết đi đâu, thỉnh thoảng anh V mới về nhà và anh cũng không có trách nhiệm với vợ, con. Đã một lần chị làm đơn xin ly hôn anh V, nhưng anh V xin lỗi chị đã tha thứ nhưng sau đó anh chứng nào tật nấy, không chịu tu sửa bản thân. Lần đây nhất, anh V đã đánh chị , uống rượu xô mẹ chị bị ngã rạn xương vai. Đến nay, chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh V .

Về phần con cái: Vợ chồng có 2 con chung cháu tên là: Hồ Thị Bích N (nữ) sinh ngày 14/11/2003; cháu thứ hai là: Hồ Viết H (nam) sinh ngày 17/01/2006. Nếu ly hôn chị xin được nuôi cả hai con và không yêu cầu anh V đóng góp nuôi con chung.

Về tài sản: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, anh Hồ Viết V không đến làm việc theo giấy triệu tập , mặc dù đã được Tòa án triệu tập nhiều lần và niêm yết các loại giấy tờ theo quy định của pháp luật. Vì vậy, Tòa án nhân dân thị xã B không lấy được lời khai của anh Hồ Viết V. Qua lời khai của ông Hồ Viêt V là bố đẻ của anh V cho biết nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa chị L và anh V là do chị L muốn ở bên ngoại mặc dù gia đình chồng đã làm nhà cho anh V và chị L tại thôn 2 xã Q , thị xã B. Vì vậy, anh V và chị L mỗi người một nơi . Cách đây một thời gian ngắn, anh Vân và chị L có về với nhau được một thời gian nhưng không chung sống được. Cho đến nay, anh V đã vào Nam làm ăn. Ông đã trực tiếp khuyên bảo anh V đến Tòa án để làm việc, nhưng anh V nói với ông anh không đến, còn chị L cố tình ly hôn anh thì Tòa án sẽ giải quyết theo quy định. Theo cung cấp của thôn trưởng thôn 2, thôn 1 nơi anh V và chị L sinh sống trước đây và nơi ở hiện nay của mẹ con chị L cho biết anh V thường xuyên đi làm ăn xa thi thoảng mới về nhà và cho biết nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do anh Vân đi làm ăn xa thường xuyên vắng nhà, chị L có phàn nàn không gửi tiền về nuôi con . Từ trước đến nay, chỉ thấy có một mình chị L nuôi con ăn học.

Đây là lần thứ hai vắng mặt anh Hồ Viết V tại phiên tòa, nên căn cứ khoản 2 điều 227 BLTTDS hội đồng xét xử căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để xét xử vắng mặt anh Hồ Viết V.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Nguyễn Thị L cương quyết xin ly hôn anh Hồ Viết V. Về phần con cái: chị xin được nuôi cả hai cháu là Hồ Thị Bích N và cháu Hồ Viết H. Chị L không yêu cầu anh V đóng góp nuôi con nên không xét. Về tài sản chị L không yêu cầu giải quyết nên không xét.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thị xã B phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa trong quá trình thụ lý, giải quyết và tại phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của bộ Luật Tố tụng Dân sự.

Về đường lối giải quyết: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Tòa án chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Nguyễn Thị L xử cho chị Nguyễn Thị L được ly hôn anh Hồ Viết V . Về phần con cái: Đề nghị Tòa án giao hai cháu là Hồ Thị Bích N và Hồ Viết H cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên. Chị L không yêu cầu anh V đóng góp nuôi con nên không xét. Về phần tài sản: Đương sự không đề nghị giải quyết nên không xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét về tố tụng: Việc chị Nguyễn Thị L có đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Hồ Viết V được quy định tại khoản 1 điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã B. Vì vậy, Tòa án nhân dân thị xã B thụ lý giải quyết là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: chị Nguyễn Thị L và anh Hồ Viết V kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào năm 2003, do UBND xã Q, thị xã B, tỉnh T cấp đăng ký . Như vậy, đây là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống, vợ chồng được hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn . Theo kết quả điều tra xác mình thể hiện anh V thường xuyên vắng nhà, chị L khai không rõ làm ăn như thế nào, nhưng không có trách nhiệm với vợ, con, chỉ có một mình chị nuôi các con. Đồng thời , cũng thể hiện lâu nay vợ chồng không chung sống cùng nhau. Chị L về sống gần với gia đình bên ngoại, anh V đi làm ăn xa không có nhà và gần đây lại phát sinh việc mâu thuẫn giữa anh Vân và bà ngoại mẹ chị L, nên tình cảm vợ chồng phai nhạt dần. Chị L xét thấy không thể chung sống được với anh V nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh V. Về phía anh V mặc dù đã được trực tiếp nhận thông báo thụ lý và các giấy tờ tố tụng nhưng anh không chấp hành, điều đó thể hiện sự anh cố tình vắng mặt. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng đời sống chung không thể kéo dài mục đích hôn nhân không đạt được, nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị L. Xử cho chị Nguyễn Thị L được ly hôn anh Hồ Viết V.

[3]. Về phần con cái: Vợ chồng có 2 con chung cháu đầu tên là: Hồ Thị Bích N (nữ) sinh ngày 14/11/2003 và cháu Hồ Viết H (nam) sinh ngày 17/01/2006. Xét thấy, hiện nay các cháu đang ở cùng với chị L mà anh V thường xuyên đi làm ăn xa, nên giao cả hai cháu cho chị Nguyễn Thị L trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên, chị L không yêu cầu anh V đóng góp nuôi con nên không xét.

[4]. Về phần tài sản: Quá trình Tòa án giải quyết các đương sự không đề nghị Tòa án giải quyết về phần tài sản nên Tòa án không xét.

[5]Về án phí: áp dụng khoản 4 điều 147 Bộ Luật Tố tụng Dân sự, điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Mục 1.1 phần danh mục về mức án phí ban hành theo nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội buộc chị Nguyễn Thị L phải nộp tiền án phí Dân sự sơ thẩm 300.000đ (ba trăm ngàn đồng).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

*Áp dụng: khoản 1 điều 28 và khoản 3 điều 144; khoản 4 điều 147 Bộ Luật Tố tụng Dân sự; Điều 51, 56; 81; 82; 83; 84 Luật Hôn nhân gia đình. Điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Mục 1.1 phần danh mục về mức án phí ban hành theo nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử: Chp nhận đơn xin ly hôn của chị Nguyễn Thị L. Xử cho chị Nguyễn Thị L được ly hôn anh Hồ Viết V .

Về phần con cái : Giao cả hai cháu Hồ Thị Bích N ( nữ) sinh ngày 14/11/2003 và cháu Hồ Viết H ( nam) sinh ngày 17/01/2006 cho chị Nguyễn Thị L trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên, chị L không yêu cầu anh V đóng góp nuôi con nên không xét.

Anh Hồ Viết V được quyền đi lại thăm nom chăm sóc và giáo dục con chung, chị Nguyễn Thị L không được ngăn cấm. Vì quyền lợi của con cái, khi cần thiết các bên đương sự được quyền làm đơn xin thay đổi việc nuôi con và việc đóng góp nuôi con chung.

Về phần tài sản: Do quá trình giải quyết các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

Về án phí: án phí Dân sự sơ thẩm chị Nguyễn Thị L phải nộp tiền án phí là 300.000đ, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) chị L nộp tiền tạm ứng án phí tại chi cục thi hành án Dân sự B theo biên lai thu số 0000762 ngày 18 tháng 10 năm 2018. Như vậy, chị Nguyễn Thị L đã thi hành xong khoản án phí Dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, chị Nguyễn Thị L được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (14/03/2019), anh Hồ Viết V vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết công khai bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

291
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2019/DSST/HNGĐ ngày 14/03/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:02/2019/DSST/HNGĐ
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bỉm Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về