Bản án 02/2018/HS-ST ngày 26/12/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 02/2018/HS-ST NGÀY 26/12/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 26 tháng 12 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 97/ 2018/TLST - HS ngày 29 tháng 11 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2018/ HSST – QĐ ngày 13 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo.

Quàng Văn Th, sinh năm 1980 tại xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; Nơi ĐKNKTT: Bản X, xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: Không; dân tộc: Th; giới tính: Nam; Đoàn thể: không; Đảng phái: không; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Quàng Văn Hát (đã chết) và bà Lò Thị Mẳn, sinh năm 1948. Vợ là Lò Thị Tươi, sinh năm 1978, bị cáo có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2005 và con nhỏ nhất sinh năm 2010. Bị cáo bị bắt tạm giam giữ từ ngày 01/9/2018 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Cầm Kim Loan – Trợ giúp viên – Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La. Vắng mặt tại phiên tòa có lý do.

Người phiên dịch: Lò Văn Bang, Trú tại tiểu khu 3 thị trấn Ít Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La.Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 10 phút ngày 01/9/2018 tổ công tác Công an xã Y, huyện Mường La phát hiện bắt quả tang bị cáo Quàng Văn Th, sinh năm 1980, trú tại bản X, xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La đang có hành vi Tàng trữ trái phép 01 (Một) gói được gói bên ngoài bằng nilon màu xanh, bên trong chứa chất bột màu trắng. Quá trình điều tra bị cáo Quàng Văn Th khai nhận hành vi phạm tội: Khoảng 07 giờ sáng ngày 01/9/2018 bị cáo Quàng Văn Th đi bộ từ nhà ở đến bản Nà Nong, xã Y, huyện Mường la để xem bong đá đến khoảng 08 giờ 30 phút cùng ngày. Th ra ngoài đường đi nhờ xe của một người không quen biết lên khu vực bản X, xã Y, Mường La mục đích để tìm mua Heroine sử dụng. Khi đến đoạn đường thuộc bản Huổi Tóng, Quàng Văn Th gặp một người đàn ông dân tộc Mông không biết tên tuổi địa chỉ và Th hỏi mua được 01 (Một) gói Heroine với số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng). Sau khi mua được Heroine, Th cất giấu vào trong túi quần bên trái đang mặc trên người và đi nhờ xe của một người qua đường không biết tên tuổi địa chỉ xuống khu vực bản Nà Nong, xã Y, sau đó Th tiếp tục đi bộ ra khu vực bến thuyền ở bản Nà Nong thì bị tổ công tác Công an xã Y phát hiện bắt quả tang,

Vật chứng thu giữ: 01 goi ni lon màu xanh bên trong có chữa cục chất bột mầu trắng (Th khai là heroin)

Ngày 01 tháng 9 năm 2018 tại phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Mường La đã tiến hành bóc mở niêm phong vật chứng, cân tách bì toàn bộ chất bột màu trắng trong gói nilon màu xanh thu giữ của Quàng Văn Th có khối lượng là 0,24 (Không phẩy hai mươi bốn) gam, lấy 0,06 (không phẩy không sáu) gam làm mẫu trưng cầu giám định, ký hiệu T1.

Ngày 01 tháng 9 năm 2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Mường La ra Quyết định trưng cầu giám định về chất ma túy số: 80/QĐTCGĐ đối với mẫu giám định ký hiệu T1, có phải là ma túy không, là loại ma túy gì, có trọng lượng là bao nhiêu.

Tại Kết luận giám định số: 1010 ngày 06 tháng 9 năm 2018 phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là ma túy; loại Heroine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,06 gam, tổng khối lượng ma túy thu giữ được là 0,24 gam, loại Heroine.

Tại bản Cáo trạng số: 538/CT- VKS ngày 29/11/2018, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường La, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Quàng Văn Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát, giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Quàng Văn Th đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Quàng Văn Th từ 24 tháng đến 30 tháng tù giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì công văn của Công an huyện Mường La được niêm phong dán kín. Mặt trước ghi: Vật chứng vụ: Quàng Văn Th – Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị bắt ngày 01/9/2018 tại Y – Mường La – Sơn La. (Gồm vỏ phong bì cũ + giấy gói cũ + 0,18 gam heroine) Mặt sau phong bì có 05 dòng chữ ký, 05 dòng họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, 01 dấu điểm chỉ ngón trỏ phải của đối tượng Quàng Văn Th và 02 dấu đỏ của Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La tại mép giáp lai của phong bì.

Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

* Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo:

Trong bản luận cứ bào chữa cho bị cáo người bào chữa cho rằng: Bị cáo Quàng Văn Th là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng sâu vùng xa, không biết chữ, nhận thức pháp luật kém, gia đình hoàn cảnh khó khăn về kinh tế. Đề nghị Hội đồng xem xét tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, áp dụng mức hình phạt nhẹ nhất đối với bị cáo để bị cáo yên tâm cải tạo sớm trở về với gia đình và xã hội

Bị cáo Quàng Văn Th, nhất trí với bài bào chữa, không có ý kiến tranh luận với mđại diện Viện kiểm sát. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Quàng Văn Th khai nhận vào khoảng 11 giờ 10 phút ngày 01/9/2018 bị cáo đang tàng trữ, cất giữ trong người một gói heroine có trọng lượng là 0,24 gam thì bị phát bị bắt quả tang.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Th đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,24 gam heroine được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS, có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Cáo trạng của Viện kiểm sát huyện Mường La truy tố đối với bị cáo Quàng Văn Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về hình phạt. Bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức hành vi tàng trữ trái chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào cũng là phạm tội, do bị cáo nghiện ma túy, nên bị cáo đã có hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng dần cho bản thân, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. Do vậy cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để trừng trị, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo không có.

Tình tiết giảm nhẹ, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Nên cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Căn cứ biên bản xác minh tài sản của Cơ quan điều tra, gia đình bị cáo không có tài sản gì có giá trị. Xét thấy bị cáo không có điều kiện thi hành hình phạt bổ sung. Do đó hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung – phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Số heroine thu của bị cáo Quàng Văn Th là 0,24 gam, đã trích rút lấy 0,06 gam để gửi mẫu giám định, còn lại 0,18 gam, đây là vật nhà nước đôc quyền quản lý và sử dụng và cầm lưu hành. Nên cần tịch thu tiêu hủy.

Về nguồn gốc số heroin bị cáo khai đã mua của người đàn ông dân tộc Mông vào sáng ngày 01/9/2018 tại khu vực bản Huổi Tóng, xã Y, huyện Mường La. Bị cáo không biết tên tuổi, địa của người đàn ông đó, việc mua bán trao đổi mua bán ma túy không có ai biết hoặc chứng kiến. Ngoài lời khai của bị cáo Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La không thu thập được tài liệu chứng cứ nào khác nên không có căn cứ để mở rộng điều tra vụ án, cần chấp nhận.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định chung.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Quàng Văn Th, phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý”

Xử phạt Quàng Văn Th 20 (hai mươi) tháng tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam, tạm giữ 01/9/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án:

Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì công văn của Công an huyện Mường La được niêm phong dán kín. Mặt trước ghi: Vật chứng vụ: Quàng Văn Th – Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị bắt ngày 01/9/2018 tại Y – Mường La – Sơn La. (Gồm vỏ phong bì cũ + giấy gói cũ + 0,18 gam heroine) Mặt sau phong bì có 05 dòng chữ ký, 05 dòng họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, 01 dấu điểm chỉ ngón trỏ phải của đối tượng Quàng Văn Th và 02 dấu đỏ của Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La tại mép giáp lai của phong bì.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/11/2018 giữa Công an huyện Mường La và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường La).

3. Về án phí: khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án ngày 26/12/2018.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

305
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2018/HS-ST ngày 26/12/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:02/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về