Bản án 02/2018/HSST ngày 24/04/2018 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH LINH, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 02/2018/HSST NGÀY 24/04/2018  VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 04/2018/HSST ngày 15/3/2018, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2018/QĐXXST-HS ngày 12/4/2018, đối với bị cáo;

Lê Công Ch, sinh năm 1971; Nơi sinh và nơi cư trú:  Khu phố 1, phường 1, thị xã QT,tỉnh Quảng Trị; Nghề nghiệp: Thợ xây; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Công Th, sinh năm 1932( Chết) và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1932; vợ: Phan Thị A, sinh 1979 ( Đã ly hôn); con: Lê Công H, sinh năm 2003; Tiền án: Bản án phúc thẩm hình sự số 398 ngày 20/8/1997 của Tòa án nhân dân Tối cao Đà Nẵng xử phạt 36 tháng tù về tội: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/4/1999, phần án phí phúc thẩm 50.000đ chưa thi hành; Tiền sự: Không; Bị bắt tạm giam từ ngày 24/12/2017. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Vĩnh Linh. Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Nguyễn Thị N - sinh năm1985

Nơi cư trú: Thôn NS, Tr Gi, GiL, Quảng Trị.Vắng mặt

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

-  Anh Hoàng Văn L - sinh năm 1991

Nơi cư trú: Thôn NS, Tr G, Gi L, Quảng Trị.Vắng mặt

-  Ông Nguyễn Quốc Tr, sinh năm 1961

-  Bà Lê Thị L, sinh năm 1963.

Đều cư trú: Thôn An DĐ2, VT, V L, Quảng Trị.Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Công Ch có quen biết với chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1985 ở NS, Tr Gi, GiL tại Bệnh viện Đa Khoa Quảng Trị vào tháng 8/2017 và giới thiệu mình tên H.

Đến ngày 23/9/2017 Ch đi xe buýt từ Đông Hà đến nhà chị N ở Tr Gi chơi. 15h cùng ngày chị N giao xe mô tô YAMAHA SIRIUS biển kiểm soát 74B1-131.32 ( xe của anh Hoàng Văn L  em họ chị N  gửi lại để đi biển) cho Ch, Ch điều khiển xe chở chị N đi ra chợ cá thị trấn C Tg để mua cá. Đến nơi chị N dặn Ch đứng ngoài  đợi. Ch đứng đợi một lúc thì đến quán xăng gần đó để đổ xăng, khi mở cốp xe thấy bên trong cốp xe có giấy đăng ký mô tô và giấy CMND đều mang tên Hoàng Văn L. Lúc này Châu nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô trên để cầm cố lấy tiền tiêu xài. Châu hỏi người dân gần đó tiệm cầm đồ thì được hướng dẫn đến gần chợ D, VT. Châu điều khiển xe đến tiệm cầm đồ của vợ chồng ông Nguyễn Quốc Tr và bà Lê Thị L ở thôn AD 2, V T. Ch nói với ông Tr và bà Lmình có người nhà bị ốm nên muốn cầm xe giá 10.000.000đ. Thấy có đủ giấy tờ đăng ký và CMND đều mang tên Hoàng Văn L. Nghĩ Ch là L nên vợ chồng ông Tr, bà L cho Ch cầm xe với giá 10.000.000đ. Nhận tiền xong Ch đón xe buýt vào Đ H và đã tiêu xài hết. Trên đường vào ĐH, Ch thấy chị N gọi điện thoại nhiều lần nhưng Ch không nghe và vứt luôn sim điện thoại của mình để chị N không liên lạc được. Chị N liên lạc Ch không được nên đã trình báo Công an huyện Gio Linh. Tại Cơ quan Điều tra qua đấu tranh Ch thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Theo kết luận định giá tài sản ngày 29/9/2017 của Hội đồng định giá tài sản xác định giá trị chiếc xe môtô YAMAHA SIRIUS biển kiểm soát 74B1-131.32  là 20.350.000đ (Hai mươi triệu ba trăm năm mươi ngàn đồng).

Ngày 09/02/2018 ông Nguyễn Quốc Tr và bà Lê Thị L đã nhận ở gia đình Châu đủ số tiền cầm xe là:10.000.000đ

Qua quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, sau khi xét hỏi và tranh luận, Lê Công Ch khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Cáo trạng số: 03/CT-VKS-KT, ngày 14/3/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị đã truy tố Lê Công Ch về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, theo khoản 1 Điều 140 BLHS năm 1999.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Linh vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Lê Công Ch phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài  sản”. Áp dụng: Khoản 1 Điều 140 BLHS 1999; điểm b, p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999. Đề nghị xử phạt bị cáo: Từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính ngày bắt tạm giam 24/12/2017.

Về vật chứng: Tài sản thu giữ tại giai đoạn điều tra đã giao trả lại cho chủ sở hữu, hiện không ai có ý kiến gì nên không xét.

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo nói lời sau cùng: Mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

Hành vi của bị cáo Lê Công Ch: Khoảng 15 giờ ngày 23/9/2017, do quen biết với chị Nguyễn Thị N từ trước, nhân lúc chị Nở giao xe mô tô  YAMAHA SIRIUS biển kiểm soát 74B1-131.32 số khung: 51710GY038836, số máy: E3T6E052739 của anh Hoàng Văn L cho Ch điều khiển chở chị N ra chợ cá CT mua cá. Trong lúc đứng đợi chị N vào chợ cá để mua cá,do cần tiền tiêu dùng nên sau khi mở cốp xe để đổ xăng Châu phát hiện đầy đủ các loại giấy tờ xe và chứng minh nhân dân mang tên Hoàng Văn L, Ch đã nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe môtô trên, Ch mang đi cầm cố chiếc xe máy ở tiệm cầm đồ của ông Nguyễn Quốc Tr và bà Lê Thị L ở  ADĐ2, V T, Vĩnh Linh với số tiền là: 10.000.000đ (Mười triệu đồng) bị cáo tiêu xài cá nhân hết.Hành vi của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, đơn trình báo của người bị hại, kết luận định giá tài sản và các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

Như vậy Hội đồng xét xử nhận thấy đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê Công Ch phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999 tương ứng với khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Vụ án thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng, tính chất và mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo. Hành vi phạm tội của bị cáo nguy hiểm cho xã hội ảnh hưởng đến trật tự trị an xã hội trên địa bàn, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây bức xúc trong dư luận quần chúng nhân dân, bị cáo nhận thức đầy đủ về tính chất nguy hiểm cũng như hậu quả của hành vi do mình thực hiện, nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm nên phạm tội do lỗi cố ý trực tiếp.

Động cơ và mục đích của bị cáo là muốn có tiền tiêu dùng cá nhân.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại bản án phúc thẩm số 398/HSPT ngày 20/8/1997 của Tòa tối cao tại Đà Nẵng xử phạt 36 tháng tù về tội : Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/4/1999 nhưng bị cáo Ch chưa thi hành phần án phí hình sự phúc thẩm 50.000đ nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “Tái phạm”   được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS 1999 tương ứng với điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS 2015.Tiền sự không. Vì vậy cần phải xử phạt tù bị cáo, nhằm giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành người tốt. Nhưng khi lượng hình phạt cũng cần xem xét giảm hình phạt cho bị cáo vì sau khi bị bắt  và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, tác động gia đình bồi thường đủ số tiền 10.000.000đ cho người liên quan, tài sản đã thu hồi trả lại cho chủ sở hữu, Hội đồng xét xử căn cứ vào các quy định  pháp luật cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, p khoản 1, Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 (tương ứng với điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015);

So sánh quy định quy định khoản 1 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999 thì mức phạt tù từ ba tháng đến ba năm, thấp hơn so với mức hình phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm quy định tại khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015.Căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14, ngày 20/6/2016, của Quốc hội và Công văn số 04/TANDTC-PC ngày 09/01/2018 của Tòa án nhân dân tối cao nên cho bị cáo được hưởng mức khoan hồng của chính sách pháp luật hình sự năm 1999.

Đề nghị của Viện kiểm sát: Về áp dụng pháp luật và mức hình phạt đối với bị cáo có căn cứ.

Bị cáo chiếm đoạt chiếc xe môtô mục đích là để có tiền tiêu dùng cá nhân nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[2] Về xử lý vật chứng và các vấn đề khác:

Chiếc xe mô tô YAMAHA SIRIUS biển kiểm soát 74B1-131.32 số khung: 51710GY038836, số máy: E3T6E052739 mang tên anh Hoàng Văn L. Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[3] Về án phí: Bị cáo Lê Công Ch phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 140 Bộ luật Hình sự 1999; điểm b, p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tuyên bố bị cáo:

Lê Công Ch phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo: Lê Công Ch 15( Mười lăm) tháng tù, Thời hạn tù được tính từ ngày bắt tạm giam 24/12/2017.

Về án phí: Áp dụng Điều 99 BLTTHS năm 1999 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo: Lê Công Ch phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày 24 tháng 4 năm 2018. Vắng mặt người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở chính quyền xã nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

271
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2018/HSST ngày 24/04/2018 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:02/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Linh - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về