Bản án 01/2021/HS-ST ngày 14/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẢO LỘC, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 01/2021/HS-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 14 tháng 01 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 136/2020/HSST ngày 30 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 145/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: La Anh Th; tên gọi khác: không; sinh năm: 1986; tại: Bắc Kạn; nơi ĐKNKTT: Thôn P, thị trấn Y, huyện N, tỉnh B; nơi cư trú: không nơi ở nhất định; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: Lớp 06/12; dân tộc: nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: La Văn S, sinh năm 1964 (đã chết) và bà Nông Thị Thu H, sinh năm 1964, nơi cư trú: phường 1, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; vợ, con: chưa có.

Tiền sự: không;

Tiền án: Ngày 17/4/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số 04/2019/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 10/7/2019.

Nhân thân: Ngày 25/11/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số 62/2016/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 27/3/2017.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Nhà tạm giữ công an Tp. Bảo Lộc từ ngày 28/9/2020 cho đến nay (có mặt) - Bị hại: Ông Phạm Minh Tr, sinh năm 1974; nơi cư trú: đường L, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng. (có đơn xin vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1981; nơi cư trú: đường Tr, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng. (có đơn xin vắng mặt).

2/ Ông Hà Văn G, sinh năm 1990; nơi cư trú: Thôn 1, xã H, huyện D, tỉnh Lâm Đồng. (có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ ngày 15/9/2020 đến ngày 16/9/2020 La Anh Th, đã thực hiện 02 lần trộm cắp trên địa bàn thành phố Bảo Lộc, cụ thể:

Lần thứ nhất: Vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 15/9/2020 La Anh Th điều khiển xe mô tô BS: 49M3-4572, nhãn hiệu Wave RSX mượn của anh Hà Văn Gi, đi lòng vòng khu vực phường Lộc Sơn để tìm tài sản trộm cắp. Khi đi ngang qua gara ô tô M do anh Phạm Minh Tr làm chủ thì thấy không có ai trông coi nên Thế chạy xe đến chỗ đống phế liệu của gara lấy trộm một khối sắt có hình tròn. Th chở khối sắt nói trên đến tiệm phế liệu ở gần ngã 3 Lộc Sơn bán cho chị Nguyễn Thị T được số tiền 150.000 đồng (tương đương với khối lượng là 36,8 kg). Ngay sau đó, Thế quay lại gara M lấy tiếp 01 khối sắt có đặc điểm giống như khối sắt ban đầu, nặng 19,8kg mang đến bán cho chị T được số tiền 100.000 đồng. Đối với số tiền 250.000 đồng có được từ việc trộm cắp 02 khối sắt Th đã tiêu xài cá nhân hết.

Lần thứ hai: Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 16/9/2020 La Anh Th điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave RSX, màu đen, BS: 49M3-4572 đi từ thôn 1, xã H, huyện D xuống Bảo Lộc để mua ma túy sử dụng. Sau khi sử dụng ma túy xong thì Th điều khiển xe đi lòng vòng quanh khu vực thành phố B để trộm cắp tài sản bán lấy tiền mua ma túy sử dụng. Khi đi đến gara M ở đường Lam Sơn thì Th thấy không có ai trông coi nên đi vào khu vực để sắt phế liệu lấy trộm 01 khúc sắt cong ở giữa, chiều dài 1,3m, hình trụ tròn, nặng 76kg đặt lên yên xe máy. Khi Th chuẩn bị leo lên xe để đi thì bị anh Tr phát hiện và giữ lại báo công an đến giải quyết.

Tại Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 127/2020 ngày 18/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Bảo Lộc kết luận: 01 thanh sắt có trọng lượng 76kg có giá trị là 380.000 đồng; 01 cục sắt nặng 38,6kg trị giá 184.000 đồng và 01 cục sắt nặng 19,8kg trị giá 99.000 đồng. Tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 663.000 đồng.

Về vật chứng: Cơ quan CSĐT Công an Tp. Bảo Lộc đã tạm giữ và trả lại: - 01 thanh sắt dài 130cm, đường kính hai đầu 09cm, trọng lượng 76kg; 01 cục sắt hình tròn, trọng lượng 36,8kg; 01 cục sắt hình tròn, trọng lượng 19,8kg cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Phạm Minh Tr; 01 xe mô tô BS: 49M3-4572 cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Hà Văn Gi.

Về trách nhiệm dân sự: anh Phạm Minh Tr và chị Nguyễn Thị T không có yêu cầu đề nghị gì về dân sự.

Tại bản cáo trạng số 146/CT-VKSBL ngày 27 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bảo Lộc đã truy tố La Anh Th về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo La Anh Th thừa nhận toàn bộ nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Bị cáo thừa nhận vào ngày 15/9/2020 và ngày 16/9/2020 bị cáo đã lén lút trộm cắp tài sản của anh Phạm Minh Tr tại ga ra M 02 cục sắt hình tròn trị giá 283.000đ và 01 cây sắt dài trị giá 380.000đ, tổng giá trị tài sản là 663.000 đồng với hành vi cụ thể như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu là đúng, bị cáo không thắc mắc hay khiếu nại gì nội dung của bản cáo trạng.

Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung bản Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo, đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Điều 38 Bộ luật hình sự 2015, đề nghị xử phạt bị cáo Th từ 18 đến 24 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai, vi phạm pháp luật, xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an thành phố Bảo Lộc; của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bảo Lộc trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến thắc mắc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Hội đồng xét xử thấy rằng, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án: Vào ngày 15/9/2020 và ngày 16/9/2020 lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của chủ sở hữu tài sản trong quản lý tài sản, bị cáo Th đã lén lút trộm cắp tài sản của anh Phạm Minh Tr 02 cục sắt hình tròn và 01 cây sắt dài, theo kết luận định giá trong tố tụng hình sự số 127/2020/KL-HĐĐG ngày 18/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Bảo Lộc, tổng trị giá là 663.000đ (sáu trăm sáu mươi ba nghìn đồng) để bán lấy tiền tiêu xài là hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm trái pháp luật đến quyền sở hữu tài sản của người khác, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo Th vừa chấp hành xong hình phạt 06 tháng tù của bản án số 04/2019/HSST ngày 17/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông vào ngày 10/7/2019 chưa được xóa án tích về hành vi trộm cắp tài sản nay tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới. Đối chiếu lời khai của bị cáo Th; lời khai của bị hại và chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ khẳng định hành vi của bị cáo Th đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo vì vậy cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Về nhân thân: Ngày 25/11/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông xử phạt 06 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số 62/2016/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 27/3/2017.

Xét tính chất hành vi do bị cáo Th thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện bị cáo coi thường kỷ cương pháp luật, hành vi trên không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương; xét các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo, cần thiết phải áp dụng cho bị cáo một mức hình phạt thật nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp, Viện kiểm sát đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[4] Về vật chứng:

Quá trình điều tra cơ quan điều tra thu giữ và đã trả lại: 01 thanh sắt dài 130cm, đường kính hai đầu 09cm, trọng lượng 76kg; 01 cục sắt hình tròn, trọng lượng 36,8kg; 01 cục sắt hình tròn, trọng lượng 19,8kg cho chủ sở hữu hợp pháp anh Phạm Minh Tr và 01 xe mô tô BS: 49M3-4572 đã trả cho chủ sở hữu hợp pháp anh Hà Văn Gi là đúng quy định pháp luật.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại ông Phạm Minh Tr và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Hà Văn Gi đã nhận lại tài sản không yêu cầu gì. Bà Nguyễn Thị T không yêu cầu gì về dân sự nên không xem xét.

[6] Đối với Hà Văn Gi là người cho La Anh Th mượn xe mô tô BS:49M3-4572 để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, tại thời điểm cho mượn xe anh Gi không biết Th mượn xe để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Do đó, không xem xét trách nhiệm hình sự đối với hành vi của Hà Văn Gi.

Đối với chị Nguyễn Thị T, là người mua lại tài sản do Th trộm cắp mà có. Tuy nhiên, tại thời điểm mua chị T không biết đó là tài sản do Th phạm tội mà có nên không xem xét trách nhiệm hình sự đối với hành vi của chị Nguyễn Thị T.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo La Anh Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo La Anh Th 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/9/2020.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về lệ phí, án phí tòa án. Buộc bị cáo La Anh Th phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Đối với bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/HS-ST ngày 14/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:01/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về