Bản án 01/2021/HS-ST ngày 12/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 01/2021/HS-ST NGÀY 12/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 118/2020/ TLST - HS, ngày 30 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:123/ 2020/QĐXXST- HS ngày 28 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Phạm Văn Th, sinh ngày 10/9/1986;

Nơi cư trú: Thôn Phương Quả Đông, xã Quỳnh Nguyên, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn Đề, sinh năm 1951 và con bà Đinh Thị Vinh, sinh năm 1956. Nơi cư trú: thôn Phương Quả Đông, xã Quỳnh Nguyên, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình; có vợ Nguyễn Thị D1, sinh năm 1991 và có 02 con, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2011. Tiền sự: Không;

Tiền án: Bản án số 66/2015/HS- ST ngày 28/9/2015 của Tòa án nhân dân huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bản án số 93/2015/HS - PT ngày 18/12/2015 Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xử phạt 03 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp với hình phạt 01 năm tù tại Bản án số 66/2015/HSST ngày 28/9/2015 của Tòa án nhân dân huyện Vũ Thư, buộc chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 04 năm 6 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/4/2015; ngày 27/01/2019 chấp hành xong hình phạt tù.

Nhân thân: Bản án số 30/2006/HSST ngày 20/10/2006 Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” ngày 30/3/2008 chấp hành xong hình phạt tù; tháng 6/2007 chấp hành xong án phí.

Bị cáo Th bị bắt tạm giam từ ngày 29/10/2020; hiện đang bị tạm giam tại Nhà Tạm giữ - Công an huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.

Bị hại: Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1971, Nơi cư trú: Thôn Hải An, xã Quỳnh Nguyên, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình

Người làm chứng: Anh Phạm Văn Ch, sinh năm 1977; Chị Nguyễn Thị D1, sinh năm 1991; Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1970 cùng trú tại thôn Phương Quả Đông, xã Quỳnh Nguyên, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình; Chị Phạm Thị K, sinh năm 1979, trú tại thôn Quyết Tiến, xã Bắc Sơn, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

(Tại phiên tòa: có mặt bị cáo Th; vắng mặt bị hại, người làm chứng)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 0 giờ ngày 26/7/2020, do trời mưa to nên Th mặc áo mưa bằng nhựa màu đen, mang theo 02 bao xác rắn màu vàng và điều khiển chiếc xe đạp mini màu xanh dựng ở hiên nhà để đi trộm cắp tài sản. Khi đi đến khu vực thôn Hải An, xã Quỳnh Nguyên, Th thấy nhà bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1971, đã đi ngủ, trong chuồng sát với tường bao cạnh đường đi có tiếng gà kêu nên nảy sinh ý định trộm cắp gà của gia đình bà D. Th dựng xe sát mép tường bao nhà bà D, cầm bao xác rắn trèo qua tường bao cao khoảng 1,2 mét, đi tới bắt trong chuồng gà được 14 con gà (gồm 12 con gà lai Đông Tảo và 02 con gà mái) rồi bỏ vào 02 bao xác rắn, dùng dây chuối có sẵn ở vườn buộc miệng bao lại, xách bao thả qua bờ tường. Th trèo tường ra ngoài, đặt 02 bao đựng gà lên yên sau của xe đạp và chở về nhà, thả toàn bộ gà vào chuồng gà của vợ chồng Th rồi vứt 02 chiếc bao xác rắn xuống mương nước gần nhà. Sau đó, Th thay quần áo rồi đi ngủ. Đến khoảng 7 giờ ngày 26/7/2020, vợ Th là chị Nguyễn Thị D1 ngủ dậy, thấy có nhiều gà trong chuồng nên hỏi thì Th nói dối do Th đi chợ sớm, thấy bán rẻ nên mua về để nuôi. Chị D1 tin là thật nên không hỏi gì thêm. Sau đó, Th đem bán 11 con gà và giết ăn thịt 03 con gà còn lại. Cụ thể ngày 02/8/2020, Th bán 02 con gà lai Đông Tảo cho chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1970, ở cùng thôn, được số tiền là 500.000 đồng; bán 02 con gà lai Đông Tảo và 02 con gà mái đẻ cho chị Phạm Thị K, sinh năm 1979, là chị ruột của Th được số tiền là 900.000 đồng; ngày 06/8/2020 mang 05 con gà lai Đông Tảo ra chợ Hới bán cho một người không quen biết được 700.000 đồng. Ngày 17/10/2020, bà Nguyễn Thị D có đơn trình báo gửi Công an huyện Quỳnh Phụ đề nghị giải quyết.

Căn cứ tài liệu xác minh, cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Quỳnh Phụ đã triệu tập Phạm Văn Th lên trụ sở để làm việc. Tại cơ quan điều tra, Phạm Văn Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung trên.

Bản Kết luận định giá tài sản số 21/KL-HĐĐGTS ngày 22/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Quỳnh Phụ, kết luận: 12 con gà lai Đông Tảo, lông màu đen có tổng trọng lượng khoảng 33kg có giá trị 2.970.000 đồng; 02 con gà mái lông màu vàng có trọng lượng khoảng 6kg có giá trị 300.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 3.270.000 đồng (Ba triệu hai trăm bẩy mươi nghìn đồng).

Bản Cáo trạng số 123/CT-VKSQP ngày 30/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình truy tố Phạm Văn Th về tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Ông Kiểm sát viên thực hành quyền công tố kiểm sát xét xử tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phạm Văn Th như tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản cáo trạng nêu trên. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 và Điều 50 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Văn Th từ 01 năm 03 tháng tù đến 01 năm 06 tháng tù, tính từ ngày 29/10/2020. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Th.

Về trách nhiệm dân sự, về xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong nên không xem xét. Về án phí: Bị cáo Phạm Văn Th phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa: Bị cáo Phạm Văn Th thừa nhận đã trèo qua bờ tường vào gia đình bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1971, trú tại thôn Hải An, xã Quỳnh Nguyên, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình để trộm cắp tài sản của bà D là 12 con gà lai Đông Tảo, 02 con gà mái và nhất trí với nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Bị hại: Bà Nguyễn Thị D vắng mặt tại phiên tòa nhưng bà D đã có đơn trình bày: Bà đã nhận lại số tiền bị cáo Th bồi thường là 2.000.000 đồng và không yêu cầu gì thêm về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo Th đồng thời có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Lời nói sau cùng bị cáo Phạm Văn Th rất ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo, bị hại không có khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội: Đơn trình báo và biên bản ghi lời khai của bị hại: Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1971, trú tại thôn Hải An, xã Quỳnh Nguyên, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình (Bút lục số 01; 115 - 118); Sơ đồ hiện trường do Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Quỳnh Phụ lập và do bị cáo tự mô tả (Bút lục số 51,52); Kết luận định giá tài sản số 21/KL-HĐĐGTS ngày 22/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Quỳnh Phụ (Bút lục số 36); Biên bản ghi lời khai của người làm chứng: Anh Phạm Văn Chất; chị Nguyễn Thị D1; chị Nguyễn Thị H; chị Phạm Thị K (Bút lục số 121 - 134); Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai trong quá trình điều tra, truy tố và các chứng có trong hồ sơ vụ án và nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo Th là đúng người, đúng tội, đúng điều luật.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 0 giờ ngày 26/7/2020, tại gia đình bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1971, trú tại thôn Hải An, xã Quỳnh Nguyên, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, bị cáo Phạm Văn Th đã có hành vi trộm cắp của bà D 12 con gà lai Đông Tảo và 02 con gà mái có tổng giá trị tài sản là 3.270.000 đồng (Ba triệu hai trăm bẩy mươi nghìn đồng). Bị cáo Th đã bị kết án (theo Bản án số 66/2015/HS-ST, ngày 28/9/2015 của Tòa án nhân dân huyện Vũ Thư và bản án số 93/2015/HS- PT ngày 18/12/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình đều tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”) chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Do đó bị cáo Phạm Văn Th đã phạm tội: “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Điều 173. Tội trộm cắp tài sản “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”.

[3] Về tính chất và mức độ nguy hiểm: Hành vi trộm cắp tài sản mà bị cáo Th thực hiện đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bà D được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an khu vực xảy ra tội phạm.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bị kết án chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên phải chịu tình tiết tăng nặng “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Th đã tự nguyện bồi thường khắc phục thiệt hại cho bị hại; quá trình điều tra, truy tố đã thành khẩn khai báo nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả” "Người phạm tội thành khẩn khai báo" quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Bị cáo Th có nhân thân xấu đã nhiều lần bị xét xử hình sự.

[7] Về hình phạt chính: Bị cáo Phạm Văn Th phạm tội với tình tiết tăng nặng là “tái phạm” có nhân thân xấu nhưng trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và được bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt. Vì vậy cần buộc bị cáo Phạm Văn Th phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn theo Điều 38 của Bộ luật Hình sự với mức đề nghị của ông Kiểm sát viên là tương xứng với hành vi phạm tội của của bị cáo, cần cách ly khỏi xã hội và giáo dục bị cáo Th có ý thức tuân theo pháp luật, trở thành người công dân sống có ích cho gia đình và xã hội.

[8] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo Phạm Văn Th tại phiên tòa bị cáo không có thu nhập ổn định, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Th.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, Phạm Văn Th đã tự nguyện bồi thường bị hại số tiền 2.000.000 đồng. Bà Nguyễn Thị D đã nhận đủ số tiền trên và không yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo.

[10] Về xử lý vật chứng: Chiếc xe đạp mini màu xanh là tài sản hợp pháp của anh Phạm Văn Chất (anh trai của bị cáo). Anh Chất không biết việc bị cáo tự ý sử dụng chiếc xe trên đi trộm cắp tài sản nên Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe cho anh Chất là phù hợp với quy định của pháp luật.

[11] Đối với chị Nguyễn Thị H và chị Phạm Thị K là những người đã mua 06 con gà do bị cáo mang bán nhưng các chị không biết đó là tài sản là do bị cáo trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý đối với các chị (Hoa, Khuyên) là phù hợp với quy định của pháp luật. Đối với 05 con gà lai Đông Tảo bị cáo khai đã bán cho một người không quen biết tại chợ Hới, xã Quỳnh Nguyên nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để xác minh, làm rõ.

[12] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Phạm Văn Th phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[13] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn Th phạm tội "Trộm cắp tài sản".

2. Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự.

3. Xử phạt bị cáo Phạm Văn Th 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 29 tháng 10 năm 2020).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Phạm Văn Th phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm Văn Th có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 12 tháng 01 năm 2021). Bà Nguyễn Thị D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/HS-ST ngày 12/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:01/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về