Bản án 01/2021/HSST ngày 07/01/2021 về tội trộm cắp tài sản và tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẠC LIÊU, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 01/2021/HSST NGÀY 07/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 07 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 125/2020/HSST ngày 26 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 118/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Lê Hoàng K (Tên gọi khác: K khùng); Giới tính: Nam; Sinh năm: 1995, tại: Bạc Liêu;

- Nơi cư trú: Số 013, Khóm T, Phường B, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu;

- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

- Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 3/12.

- Cha: Lê Hữu S, (chết); Mẹ: Tào Ngọc N, sinh năm 1971;

- Vợ: Huỳnh Thị N, sinh năm: 1989 và 01 người con sinh năm 2019;

- Anh, chị em ruột: 02 người, lớn nhất sinh năm 1993, nhỏ nhất sinh năm 1998;

- Tiền án: Không.

- Tiền sự: 01 lần, ngày 14/3/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Bạc Liêu, với thời hạn 24 tháng. Đã chấp hành xong ngày 03/01/2020.

- Ngày 18/8/2020, bị bắt tạm giam cho đến nay tại nhà tạm giữ Công an thành phố Bạc Liêu (có mặt).

2. Họ và tên: Hồ Văn T (Tên gọi khác: Tám T); Giới tính: Nam; Sinh năm: 1987, tại: Bạc Liêu;

- Nơi đăng ký HKTT: Không có nơi đăng ký HKTT;

- Chỗ ở: Số 31, khóm C, phường T, Tp. B, tỉnh Bạc Liêu;

- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

- Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: Không biết chữ;

- Cha: Hồ Văn K, sinh năm: 1956; Mẹ: Lê Thị V, sinh năm 1970;

- Anh, chị em ruột: 03 người, lớn nhất sinh năm 1994, nhỏ nhất sinh năm 2000;

- Tiền án: 01 lần, ngày 26/4/2012, bị Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/12/2017, bản án chưa được xóa án tích;

- Tiền sự 01 lần: Ngày 11/6/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Bạc Liêu, với thời hạn 24 tháng, đã chấp hành xong ngày 03/4/2020;

- Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay (có mặt).

* Người bị hại:

- Nhà thiếu nhi P, tỉnh Bạc Liêu.

Địa chỉ: Số 34, đường T, Khóm B, Phường B, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu. Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Chí H – Chức vụ: Giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Chị Lê Huỳnh N, sinh năm 1996, là cán bộ Nhà thiếu nhi Phùng Ngọc Liêm;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp N, Thị trấn P, huyện P, tỉnh Bạc Liêu (có mặt).

- Bà Hồ Thu O, sinh năm 1979;

Địa chỉ: Số M, đường V, Khóm M, Phường M, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu (vắng mặt).

- Ông Cao Minh L, sinh năm 1985;

Địa chỉ: Số M, Khóm C, Phường N, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu (vắng mặt).

- Anh Trần Văn K, sinh năm 1993;

Địa chỉ: Số B, đường V, Khóm S, Phường B, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ ngày 12/7/2020 đến ngày 13/8/2020, bị cáo Lê Hoàng K đã thực hiện 05 vụ “Trộm cắp tài sản” của người khác trên các địa bàn khác nhau thuộc thành phố Bạc Liêu, cụ thể như sau:

- Vụ thứ 1: Khoảng 15 giờ, ngày 12/7/2020, bị cáo K đi tìm tài sản lấy trộm, khi đi đến Nhà thiếu nhi P, tại địa chỉ đường T, Khóm B, Phường B, thành phố B, quan sát không thấy không có người trông coi, nên đi vòng ra phía sau (khu vực phòng vệ sinh) cại phá khóa cửa đi vào bên trong lấy trộm 02 (hai) cây kèn Trompet Victoria (loại kèn tây) màu vàng rồi đi ra ngoài trốn thoát. Sau khi lấy trộm được tài sản, bị cáo K khai nhận dùng điện thoại chụp hình 02 cây kèn rồi đăng lên mạng xã hội rao bán. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, có người gọi điện hỏi mua nên K gửi lên bến xe Tây Ninh bán cho một người thanh niên (không xác định được nhân thân) được 1.000.000 đồng, số tiền có được chi xài hết.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 91, ngày 06/8/2020, của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự xác định: 02 (hai) cây kèn Trompet Victoria có tổng giá trị thành tiền là 6.545.000 đồng.

- Vụ thứ 2: Khoảng 02 giờ 30 phút, ngày 26/7/2020, bị cáo K đi bộ đến quán nhậu O của bà Hồ Thu O, trú tại đường V, Khóm M, Phường M, thành phố B, quan sát thấy không có người trông coi nên dùng kéo cắt sắt (đã chuẩn bị sẵn) cắt phá khóa cửa (phía sau) vào bên trong tìm tài sản lấy trộm thì nhìn thấy có 01 (một) cải tủ nhỏ bằng gỗ nên đem ra khu đất trống gần đó cạy phá khóa tủ lục soát lấy trộm số tiền 1.400.000 đồng, còn một số giấy tờ có liên quan thì ném bỏ gần đó. Sau đó, bị cáo quay vào trong quán lấy trộm “02 (hai) thùng Larue lon và 03 (ba) thùng Tiger nâu” rồi đem ra ngoài thuê xe taxi chở về nhà. Ngày hôm sau, bị cáo K mang số bia trộm được bán cho một người (không xác định được nhân thân) được 600.000 đồng, số tiền có được bị cáo K chi xài và mua ma túy sử dụng hết.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 90, ngày 05/8/2020, của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự xác định: 02 (hai) thùng bia Larue, dạng lon, có giá trị thành tiền là: 440.000 đồng và 03 (ba) thùng bia Tiger nâu, dạng lon, có giá trị thành tiền là: 960.000 đồng, cùng với số tiền 1.400.000 đồng. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 2.800.000 đồng.

- Vụ thứ 3: Khoảng 03 giờ, ngày 27/7/2020, bị cáo K tiếp tục đi đến quán O của bà Hồ Thu O, tại, Khóm M, Phường M, thành phố B, dùng kéo cắt sắt (đã chuẩn bị sẵn) cắt phá khóa cửa (phía trước) vào bên trong lấy trộm các tài sản gồm:

07 thùng bia Larue lon; 01 thùng Heiniken xanh; 03 (ba) chai rượu Công xi; 01 bọc khô các loại (không xác định được số lượng, chủng loại) và 01 bọc giò heo đem ra ngoài để phía trước quán rồi gọi điện thoại cho bị cáo Hồ Văn T nhờ T chở về nhà cất giấu. Một lúc sau, bị cáo T điều khiển xe mô tô đến thấy có các tài sản trên và biết rõ đây là tài sản do bị cáo K phạm tội mà có nhưng bị cáo T vẫn đồng ý chở các tài sản này về nhà của bị cáo K. Ngày hôm sau, bị cáo T đến nhà bị cáo K mang 07 thùng bia Larue lon; 01 thùng Heiniken xanh đến khu vực quán N thuộc Khóm N, Phường B, thành phố B, bán cho những người chơi game bắn cá (không xác định được nhân thân) được 800.000 đồng, bị cáo K chia cho bị cáo T 400.000 đồng, số tiền có được bị cáo K và bị cáo T chi xài hết.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 90, ngày 05/8/2020, của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự xác định: 07 (bảy) thùng bia Larue, dạng lon, có tổng giá trị thành tiền là 1.540.000 đồng; 01 (một) thùng bia Heniken xanh, dạng lon, có giá trị thành tiền là 389.000 đồng; 03 (ba) chai rượu Công xi, có giá 180.000 đồng; 01 bịch giò heo, số lượng 2,5 giò, trọng lượng 1,4kg/giò, có giá 427.000đ; 01 bịch khô mực, loại 22con/kg, trọng lượng 1,2kg, có giá 1.188.000 đồng; 01 bịch khô cá kèo, loại 140con/kg, trọng lượng 0,5kg, có giá 200.000đ; 01 bịch khô cá lóc đồng, loại 60con/kg, trọng lượng 1,2kg, có giá 540.000đ và 01 bịch khô cá sặc bổi, loại 14con/kg, trọng lượng 0,6kg, có giá 180.000đ. Tổng giá trị tài sản chị Hồ Thu Oanh bị mất trộm là 4.644.000 đồng.

- Vụ thứ 4: Khoảng 10 giờ, ngày 03/8/2020, bị cáo đi đến khu vực nhà kho của anh Cao Minh L, tại Khóm N, Phường B, thành phố B thì dừng lại, quan sát thấy không có người trông coi nên cại phá khóa vào lấy trộm 01 (một) Motor điện màu xám, hiệu VTC, công suất: 3,5kw, loại 03HP và 01 (một) cuộn dây điện, hiệu Cadivi 4.0, màu xám, dài 50m rồi đem về nhà rã ra bán cho người mua ve chai được 300.000 đồng và chi xài cá nhân hết.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 97 ngày 27 tháng 8 năm 2020, của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự xác định: 01 (một) Motor điện màu xám, hiệu VTC, công suất: 3,5kw (loại 03HP), dòng điện: 220V, loại 01 pha, có giá trị thành tiền là 2.417.250 đồng và 01 (một) cuộn dây điện, hiệu Cadivi 4.0, màu xám, dài 50m, có giá trị thành tiền là 502.150 đồng. Tổng trị giá tài sản bị chiếm đoạt là: 2.919.400 đồng.

- Vụ thứ 5: Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 13/8/2020, bị cáo K đi đến Thẩm mỹ viện Spa H của anh Trần Văn K, trú tại số B, Khóm S, Phường B, thành phố B, quan sát không có ai nên leo vào bên trong qua lỗ thông gió phòng vệ sinh và sau khi vào trong nhà, bị cáo K lúc soát lấy trộm 01 (một) máy tính xách tay hiệu Fujitsu Lifebook, Model: E753/G, màu đen, màn hình: 15,6 inch Full HD, loại ổ cứng 128GB, Ram: 8GB, Core i7 rồi đi ra ngoài trốn thoát. Sau khi lấy trộm được tài sản, bị cáo K khai nhận mang máy tính xách tay đến quán N thuộc Khóm N, Phường B, thành phố B, bán cho một người đàn ông (không xác định được nhân thân) được 700.000 đồng và đã chi xài hết.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 96 ngày 26 tháng 8 năm 2020 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự xác định: 01 (một) laptop hiệu Fujitsu Lifebook, Model: E753/G, màu đen, màn hình: 15,6 inch Full HD, loại ổ cứng: SSD 128GB, Ram: 8GB, CPU: Core i7 (đã qua sử dụng), có giá trị thành tiền là 3.358.000 đồng.

Bản Cáo Trạng số 125/CT-VKSTPBL ngày 25/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bạc Liêu truy tố bị caùo Lê Hoàng K về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Hồ Văn T về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bạc Liêu vẫn giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng đã truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lê Hoàng K phạm tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo Hồ Văn T phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Hoàng K từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Hồ Văn T từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Trách nhiệm dân sự: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự; Điều 584; Điều 589 Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo K bồi thường cho Nhà thiếu nhi P số tiền 6.545.000 đồng, bồi thường cho anh Cao Minh L số tiền là 2.919.400 đồng.

Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và bị cáo K phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

- Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như Viện kiểm sát đã truy tố và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Bạc Liêu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bạc Liêu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và người bị hại, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng đã truy tố, lời khai của các bị cáo tại phiên tòa thông nhât va phù hợp với lời khai khác của chính các bị cáo trong giai đoạn điều tra, phù hợp lời khai cua ngươi bị hại, đồng thời phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, làm rõ tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định trong khoảng thời gian từ ngày 12/7/2020 đến ngày 13/8/2020, bị cáo Lê Hoàng K đã thực hiện 05 vụ “Trộm cắp tài sản” trên địa bàn thành phố Bạc Liêu, chiếm đoạt nhiều tài sản có tổng giá trị là 20.266.400 đồng của Nhà thiếu nhi P, bà Hồ Thu O, ông Cao Minh L và anh Trần Văn K. Đối với bị cáo Hồ Văn T tuy không hứa hẹn trước nhưng vào ngày 27.7.2020 bị cáo T đồng ý tiêu thụ tài sản mà bị cáo biết rõ là do bị cáo K trộm cắp mà có.

Khi bị cáo K thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản, bị cáo T tiêu thụ tài sản do bị cáo K phạm tội có được, các bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi nêu trên của bị cáo K đã đủ yếu tố, dấu hiệu cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự, hành vi của bị cáo T đã đủ yếu tố, dấu hiệu cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, việc truy tố và xét xử bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm trực tiếp đến quyền quản lý, sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự trị an, gây tâm lý hoang mang cho người dân nên cần phải có một mức án nghiêm khắc để răn đe, giáo dục các bị cáo trở thành một công dân tốt, sống có ích cho xã hội.

[4] Xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã thành khẩn khai báo. Do đó, khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho các bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Tuy nhiên, bị cáo K đã 05 lần thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản, cho nên, bị cáo phải chịu thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội nhiều lần, quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo K sống cùng mẹ ruột, số tiền bị cáo phạm tội có được bị cáo chủ yếu sử dụng vào việc chơi game bắn cá và mua ma túy để sử dụng, không có căn cứ xác định bị cáo K lấy việc trộm cắp tài sản là phương tiện sinh sống chính của mình. Cho nên, không có căn cứ xác định bị cáo K phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.

Bị cáo T đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội. Cho nên, với lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm, cho nên bị cáo T phải chịu thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bà Hồ Thu O, ông Trần Văn K không yêu cầu bị cáo Lê Hoàng K bồi thường, cho nên hội đồng xét xử không đặt ta xem xét.

Nhà thiếu nhi P yêu cầu bị cáo Lê Hoàng K bồi thường số tiền 6.545.000 đồng, anh Cao Minh L yêu cầu bồi thường số tiền là 2.919.400 đồng. Xét thấy yêu cầu nêu trên là có căn cứ chấp nhận. Do đó, bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho người bị hại Nhà thiếu nhi P số tiền 6.545.000 đồng, bồi thường cho anh Cao Minh L số tiền là 2.919.400 đồng.

[7] Xử lý vật chứng: Đối với cây kéo cắt sắt bị cáo K dùng để cắt phá khóa trộm cắp tài sản của bà O, quá trình điều tra bị cáo K khai nhận đã ném bỏ xuống sông Bạc Liêu, không thu hồi được, nên không có căn cứ xử lý.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo Lê Hoàng K phải chịu dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Hoàng K (Tên gọi khác: Khải khùng) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Tuyên bố bị cáo Hồ Văn T (Tên gọi khác: Tám T) phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tôi mà có”.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Hoàng K 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày 18/8/2020.

3. Căn cứ khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Hồ Văn T 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị cáo bị bắt vào trại chấp hành hình phạt.

4. Trách nhiệm dân sự: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự; Điều 584; Điều 586; Điều 589 Bộ luật Dân sự.

Buộc bị cáo Lê Hoàng K bồi thường cho Nhà thiếu nhi P số tiền 6.545.000 đồng.

Buộc bị cáo Lê Hoàng K bồi thường cho anh Cao Minh L số tiền là 2.919.400 đồng.

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

5. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Lê Hoàng K phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 473.220 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Bị cáo Hồ Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

7. Các bị cáo và người bị hại có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

277
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/HSST ngày 07/01/2021 về tội trộm cắp tài sản và tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:01/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về