Bản án 01/2021/HS-ST ngày 06/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA TRI, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 01/2021/HS-ST NGÀY 06/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 06 tháng 01 năm 2021, Tòa án nhân dân huyện Ba Tri tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 45/2020/TLST-HS ngày 03 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2020/QĐXXST-HS ngày 24/12/2020 đối với bị cáo:

Đ, sinh ngày 03/8/1997; Tên gọi khác: Giàu Em; Nơi sinh: tỉnh Bến Tre; Nơi cư trú: Ấp P, xã P, huyện B, tỉnh Bến Tre; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Ng và bà A; Bị cáo chưa có vợ con; Có 03 anh chị, lớn nhất sinh năm 1991, nhỏ nhất sinh năm 1995; Tiền án: Ngày 28/11/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Ba Tri xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự 1999 chấp hành xong bản án ngày 28/9/2018; Tiền sự: Không; Bị cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 28/10/2020 tại xã P, huyện B cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Tr – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp Nhà nước tỉnh Bến Tre. (Có mặt).

- Người bị hại: Ông Ph, sinh năm 1969.

Trú tại: Ấp P, xã P, huyện B, tỉnh Bến Tre. (Có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông V, sinh năm 1957. Trú tại: Ấp P, xã P, huyện B, tỉnh Bến Tre. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đ là đối tượng có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích nhưng không chịu cải sửa.

Vào khoảng 11h ngày 21/8/2020, Đ đi bộ từ nhà đến chòi của Đỗ Thế Giàu (anh ruột Đ) ở khu Lạc Địa thuộc Ấp P, xã P, huyện B, tỉnh Bến Tre chơi. Khi đi ngang chòi của ông Ph – sinh năm 1969 ngụ cùng ấp, Đ phát hiện máy bơm nước của ông Ph không có người trông coi nên đến tháo lấy máy bơm đem đến bán cho ông V – sinh năm 1957 ở cùng ấp. Lúc này, ông V nghi ngờ nên hỏi nguồn gốc máy bơm thì Đ nói lấy trộm của ông Ph nên V điện thoại báo cho ông Ph biết rồi giả vờ mua với giá 100.000 đồng để chờ ông Ph đến lấy lại máy bơm. Khi ông Ph đến, Đ đã lấy tiền và bỏ đi, nên ông Ph trả lại cho ông V 100.000 đồng rồi lấy máy bơm đến báo cho Công an xã Phú Lễ.

Vật chứng thu giữ là 01 máy bơm nước hiệu LUCKY PRO, số hiệu MJSW: 080603471 do ông Ph giao nộp, đã xử lý giao trả cho Ph.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 53/KL - HĐĐGTS ngày 17/9/2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Ba Tri kết luận 01 máy mô tơ hiệu LUCKY PRO, số hiệu MJSW: 080603471 đã qua sử dụng trị giá 250.000 đồng.

Tại Bản Cáo trạng số: 01/CT-VKSBT ngày 30/11/2020, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Ba Tri đã truy tố bị cáo Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Ba Tri giữ nguyên Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố bị cáo Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”:

- Về hình phạt đề nghị HĐXX: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đ từ 09-12 tháng tù - Về xử lý vật chứng đề nghị HĐXX: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Ghi nhận Cơ quan điều tra đã xử lý giao trả: 01 máy bơm nước hiệu LUCKY PRO, số hiệu MJSW: 080603471 cho ông Ph.

- Về trách nhiệm dân sự đề nghị HĐXX: Ghi nhận ông Ph đã nhận lại tài sản bị mất và không yêu cầu bị cáo hoàn trả số tiền 100.000 đồng đã trả cho ông Phan Văn V.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đ khai nhận toàn bộ hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của ông Ph như cáo trạng nêu. Bị cáo xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo trình bày: Thống nhất với tội danh, điều luật truy tố bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà đại diện Viện Kiểm sát đã đề nghị đối với bị cáo. Đề nghị HĐXX, áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo mức hình phạt thấp nhất mà Viện Kiểm sát đề nghị là 09 tháng tù.

Tại phiên tòa, ông Ph trình bày đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu bị cáo hoàn trả số tiền 100.000 đồng đã trả cho ông Phan Văn V. Về trách nhiệm hình sự, ông Ph xin HĐXX giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông V vắng mặt không có lý do. Tuy nhiên, ông V đã có lời khai thể hiện rõ trong quá trình điều tra vụ án, bị cáo, người bị hại và những người tiến hành tố tụng không có ý kiến gì về việc vắng mặt của ông V. Xét thấy việc vắng mặt của ông V không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án. Căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, HĐXX tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông V.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ba Tri, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Ba Tri, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Lời khai nhận của bị cáo Đ tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cùng những tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan điều tra thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Đã đủ cơ sở xác định: Do động cơ tư lợi bất chính, Đ là người đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích nhưng lại tiếp tục có hành vi lén lút chiếm đoạt máy bơm nước trị giá 250.000 đồng của ông Ph; vụ việc xảy ra vào khoảng 11h ngày 21/8/2020 tại chòi của ông Ph ở khu vực Bưng Lạc Địa thuộc Ấp P, xã P, huyện B, tỉnh Bến Tre. Do đó, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Ba Tri đã truy tố bị cáo Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ. Việc làm của bị cáo không những vi phạm pháp luật mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang, lo sợ trong quần chúng nhân dân, mỗi khi sơ hở sẽ bị kẻ giang chiếm đoạt tài sản. Khi thực hiện hành vi, bị cáo là người đã trưởng Ph và đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo nhận thức được việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì bản tính tham lam, chay lười lao động, muốn có tiền tiêu xài mà không phải bỏ sức lao động nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác và hậu quả xảy ra đúng như bị cáo mong muốn. Vì vậy, bị cáo phải hoàn toàn chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với tính chất, mức độ và hành vi mà bị cáo đã gây ra, nên HĐXX xét thấy cần xử lý bị cáo bằng hình phạt tù giam mới đủ sức răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo Ph người tốt, có ích cho xã hội, đồng thời cũng nhằm răn đe phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Ph khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, người bị hại có xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, đề nghị của vị Kiểm sát viên và người bào chữa về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là có cơ sở và phù hợp với quy định của pháp luật nên được HĐXX chấp nhận, HĐXX sẽ xem xét các tình tiết nêu trên để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[7] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã xử lý giao trả: 01 máy bơm nước hiệu LUCKY PRO, số hiệu MJSW: 080603471 cho ông Ph là phù hợp với quy định của pháp luật nên HĐXX ghi nhận. Ông Ph tự nguyện không yêu cầu bị cáo trả số tiền 100.000 đồng nên HĐXX ghi nhận.

[8] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo nên được miễn nộp án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đ phạm “Tội trộm cắp tài sản”.

2. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; Điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Đ 09 (Chín) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

3. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự:

- Ghi nhận ông Ph đã nhận 01 máy bơm nước hiệu LUCKY PRO, số hiệu MJSW: 080603471 và không yêu cầu bị cáo bồi thường.

4. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Cơ quan điều tra đã xử lý giao trả: 01 máy bơm nước hiệu LUCKY PRO, số hiệu MJSW: 080603471 cho ông Ph.

5. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14: Bị cáo Đ được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt theo quy định pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/HS-ST ngày 06/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:01/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Tri - Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về