Bản án 01/2021/HS-ST ngày 06/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 01/2021/HS-ST NGÀY 06/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 96/2020/HSST ngày 11 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 94/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Đỗ Thanh T (B), sinh năm 1990, tại tỉnh Tây Ninh;

Nơi cư trú: ấp Long P, xã Long V, huyện C T, tỉnh Tây Ninh; Nghề nghiệp: Phụ giúp gia đình; Trình độ V hóa: 07/12; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Đỗ Văn R và bà Huỳnh Thị Th; vợ con chưa có;

Tiền án: Không có; Tiền sự:

- Tại Quyết định số: 07/QĐ-TA ngày 22/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện Châu THnh về việc “Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” trong thời hạn 20 tháng, chấp hành xong ngày 13/5/2020.

- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 22/QĐ/XPHC ngày 03/7/2020 của Công an xã Long Vĩnh, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy với số tiền 750.000 đồng, đã nộp xong ngày 21/7/2020.

- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 48/QĐ/XPHC ngày 05/8/2020 của Công an xã Long Chữ, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh về hành vi trộm cắp tài sản với số tiền 1.500.000 đồng, đã nộp xong ngày 24/8/2020.

Bị cáo có nhân thân xấu:

- Tại bản án số: 11/2011/HS-PT ngày 17/01/2011, của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh. Áp dụng khoản 1 Điều 250; Điểm b, h, p khoản 1 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự. Xử phạt 04 tháng 28 ngày tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 05/9/2020 đến ngày 11/9/2020 chuyển sang tạm giam cho đến nay có mặt tại tòa.

Bị hại:

Anh Phan Quốc V, sinh năm 1990; (Vắng mặt) Nơi cư trú: ấp Rừng D, xã Tiên Th, huyện B C, tỉnh Tây Ninh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1988; (Vắng mặt) Nơi cư trú: ấp Long H, xã Long C, huyện B C, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 05/9/2020, Đỗ Thanh T điều khiển xe mô tô biển số 70H6-4615 đi đến nH bà Trang Thị H tại: ấp Long P, xã Long V, huyện Châu THnh, tỉnh Tây Ninh để tìm gặp bạn là con trai bà H, nhưng đến nơi không gặp. Khi về T phát hiện có 01 xe mô tô biển số 70F1-374.03 của anh Phan Quốc V (là bạn con trai bà H) để trước thềm ba nhà, T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Sau đó, T điều khiển xe mô tô biển số 70H6-4615 chạy đi khoảng 01km thì quay lại nhà bà H, để xe ở cặp lề đường và đi bộ vào lén lút đẩy xe mô tô biển số 70F1-374.03 của anh V và bỏ lại xe mô tô 70H6-4615. Sau khi lấy trộm được xe, T đem cất giấu tại nhà hoang thuộc ấp Long Đại, xã Long Vĩnh, huyện Châu Thành, chờ bán lấy tiền sử dụng ma túy. Đến khoảng 1 giờ 30 phút ngày 05/9/2020, anh V phát hiện xe mô tô bị mất nên trình báo Công an.

Đến 09 giờ cùng ngày, Đỗ Thanh T bị Công an mời làm việc và thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 20/KL-HĐĐG ngày 24/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Châu Thành kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave, màu sơn trắng-đen-bạc, biển số 70F1- 374.03 có giá trị 8.500.000 đồng.

Vật chứng thu giữ có bản thống kê kèm theo.

Tại bản Cáo trạng số: 101/CT-VKSCT ngày 10 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo Đỗ Thanh T (B) về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây ninh giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Đỗ Thanh T (B) về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị đề nghị Hội đồng xét xử xem xét:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Bị cáo có nhân thân xấu; có 03 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, trộm cắp tài sản.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đỗ Thanh T (B) từ 18 đến 24 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về bồi thường thiệt hại: Ghi nhận anh Phan Quốc V đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đồng ý với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh và không có ý kiến gì khác.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi của các cơ quan tiến hành tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi của bị cáo thực hiện: Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 05/9/2020, Đỗ Thanh T đến nhà bà Trang Thị H tại: ấp Long P, xã Long V, huyện Châu thành, tỉnh Tây Ninh. Bị cáo có hành vi lén lút chiếm đoạt 70F1- 374.03 của anh Phan Quốc V, trị giá 8.500.000 đồng. Hành vi phạm tội của bị cáo T đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[3]. Vụ án mang tính chất ít nghiêm trọng, Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự xã hội. Trong vụ án này bị cáo có nhân thân xấu, có tiền sự lại tiếp tục phạm tội, do đó cần thiết xử phạt mức án tương xứng, để cải tạo, giáo dục bị cáo nhằm đạt được mục đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4]. Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo thấy rằng: Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Bị cáo có nhân thân xấu; có 03 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, trộm cắp tài sản.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5]. Về biện pháp tư pháp:

Về bồi thường thiệt hại: Ghi nhận anh Phan Quốc V đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Hoàn trả cho anh Nguyễn Văn N tài sản sau không có liên quan đến việc phạm tội:

- 01 (Một) chiếc xe mô tô mô tô biển số 70H6-4615 (đã qua sử dụng), không có ốp nhựa bên ngoài, không có đèn báo hiệu phía sau xe, số máy: 416681, số khung: 70E10610.

Về án phí: Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đỗ Thanh T (B) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Đỗ Thanh T (B) 01(một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/9/2020.

2. Về bồi thường thiệt hại:

Ghi nhận bị hại Phan Quốc V đã nhận tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Hoàn trả cho anh Nguyễn Văn N tài sản không liên quan đến việc phạm tội:

- 01 (Một) chiếc xe mô tô mô tô biển số 70H6-4615 (đã qua sử dụng), không có ốp nhựa bên ngoài, không có đèn báo hiệu phía sau xe, số máy: 416681, số khung: 70E10610.

4. Về án phí:

Buộc bị cáo Đỗ Thanh T (B) phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án hình sự sơ thẩm xử công khai báo cho bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Trường hợp vắng mặt tại phiên toà hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/HS-ST ngày 06/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:01/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về