Bản án 01/2021/HS-ST ngày 05/01/2021 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 01/2021/HS-ST NGÀY 05/01/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 05 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:178/2020/TLST- HS ngày 27 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 187/2020/QĐXXST-HS, ngày 23 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo:

1.1. Họ và tên: Hà Sơn B ( tên gọi khác: Không), - Sinh năm 1992; tại thành phố N, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: phố H, phường N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hà Mạnh Ch và bà Bùi Thị L; Có vợ: Vũ Thị Th và 2 con, con lớn sinh năm 2015 con nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: không; bị tạm giữ từ ngày 09/9/2020 đến ngày 15/9/2020 được thay thế bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay (có mặt).

1.2. Họ và tên: Lê Đức L ( tên gọi khác: không), sinh năm 1985; tại thành phố N, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: phố A, phường Đ, thành phố N, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Văn C và bà Nguyễn Thị Ph; Có vợ: Phạm Thị Tr và 2 con, con lớn sinh năm 2013 con nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự : không; bị tạm giữ từ ngày 09/9/2020 đến ngày 15/9/2020 được thay thế bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay (có mặt).

2 - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án: anh Đặng Văn S, sinh năm 1986; Nơi cư trú: phố R, phường Đ, thành phố N, tỉnh Ninh Bình. (vắng mặt).

3. Người chứng kiến: ông Đặng Đình C, sinh năm 1974; (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt nhau sau:

Lê Đức L có mối quan hệ quen biết với Hà Sơn B và Đặng Văn S. Dựa vào kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc mở thưởng hàng ngày, thông qua điện thoại di động Hà Sơn B và Đặng Văn S đứng ra nhận các số lô, số đề trái phép của Lê Đức L. Hành vi đánh bạc bằng hình thức “chơi số lô, đề” được thua bằng tiền của Hà Sơn B, Lê Đức L và Đặng Văn S được thống nhất cách thức, phương thức chơi như sau:

+ Đối với “số đề” 02 số người chơi chọn mua một hoặc nhiều cặp số đề bất kỳ (từ cặp số 00 đến cặp số 99). Giá trị mỗi cặp số đề mua bao nhiêu là tùy người chơi. Việc đối chiếu kết quả được thống nhất: Lấy hai số cuối của giải đặc biệt xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng trong ngày để đối chiếu; nếu cặp số của người chơi trùng với hai số cuối của giải đặc biệt xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng trong ngày thì “trúng đề”. Trong trường hợp này, B và S sẽ thanh toán cho người chơi số tiền trúng thưởng có giá trị gấp tám mươi lần số tiền người chơi đã bỏ ra mua các cặp số đề. Ngược lại nếu không có người chơi nào trúng đề thì B và S sẽ được hưởng toàn bộ số tiền người chơi đã bỏ ra mua các cặp số đề.

+ Đối với “số lô Hà Nội” người chơi chọn mua một hoặc nhiều cặp số lô bất kỳ từ cặp số 00 đến cặp số 99, mua bao nhiêu cặp số lô và giá trị bao nhiêu là tùy người chơi. Cứ 23.000 đồng người chơi bỏ ra mua một cặp“số lô Hà Nội” được tính là 01 điểm. Việc đối chiếu thanh toán được thống nhất: Lấy hai số cuối của các giải trong 7 giải xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng trong ngày để đối chiếu, nếu cặp số lô của người mua trùng khớp với hai số cuối của một hoặc các giải thưởng trong 7 giải xổ số kiến thiết miền Bắc hôm đó thì “trúng lô” nếu trùng khớp với một giải thì người chơi được B và S trả 80.000 đồng/ điểm, trùng khớp hai giải thì được 160.000 đồng/điểm. Ngược lại nếu không có người chơi nào trúng lô thì B và S sẽ được hưởng toàn bộ số tiền người chơi đã bỏ ra mua các cặp số lô.

Từ nguyên tắc, hình thức chơi “Số lô, số đề” như trên, trong ngày 09/9/2020 Hà Sơn B, Lê Đức L và Đặng Văn S đã thực hiện hành vi đánh bạc dưới hình thức mua bán số lô, số đề thông qua tin nhắn điện thoại di động cụ thể như sau:

Khoảng 17 giờ 34 phút ngày 09/9/2020 Lê Đức L sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Vivo lắp sim 0911.821.621 của mình nhắn tin đến số điện thoại 0913.014.040 của Đặng Văn S để mua các số đề: đề đầu 9 mỗi số mua 150.000 đồng, đề đít 9 mỗi số mua 150.000 đồng với tổng số tiền là 3.000.000 đồng. Sau khi nhận được tin nhắn mua các số đề do L gửi thì S đã đồng ý nhận và nhắn tin xác nhận lại cho L là “ok”. Sau đó đến 18 giờ 02 phút cùng ngày, L tiếp tục sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Vivo lắp sim 0911.821.621 của mình nhắn tin đến số điện thoại 0972.221.992 của Hà Sơn B mua các số đề: 00,02,03,23,24,25, 27,41,42,44,61,66,85,13,14,19,30,31,34,57,70,73,74,92,99 mỗi số mua 100.000 đồng với tổng số tiền là 2.500.000 đồng và các số lô Hà Nội 21,35,74,89 mỗi số mua 25 điểm x 23.000 đồng/điểm = 2.300.000 đồng; tổng số tiền mua số lô, đề là 4.800.000 đồng; Sau khi nhận được tin nhắn mua các số lô, số đề do L gửi thì B đã đồng ý nhận và nhắn tin xác nhận lại cho L là “ok”. Toàn bộ các số lô, đề do L gửi đến thì B và S giữ lại để tự đối chiếu thanh toán thắng thua.

Đối chiếu kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng ngày 09/9/2020 thì số đề 00 L mua của B 100.000 đồng đã trúng thưởng: 100.000đ x 80 = 8.000.000 đồng; số lô Hà Nội 89 L mua của B 25 điểm đã trúng thưởng: 25điểm x 80.000 đồng/điểm = 2.000.000 đồng; Như vậy tổng số tiền Lê Đức L và Hà Sơn B dùng đánh bạc ngày 09/9/2020 là 14.800.000 đồng.

Các số đề Lê Đức L mua của Đặng Văn S không trúng thưởng nên số tiền Lê Đức L và Đặng Văn S dùng đánh bạc ngày 9/9/2020 là 3.000.000 đồng. Tổng số tiền Lê Đức L dùng đánh bạc với Hà Sơn B và Đặng Văn S là 17.800.000 đồng. Toàn bộ số tiền dùng đánh bạc L, B và S chưa thanh toán với nhau.

Ngày 8/9/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thành phố Ninh Bình nhận được đơn tố giác của quần chúng nhân dân về việc Lê Đức L có biểu hiện ghi số lô, đề trái phép. Sau khi có kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng ngày 09/9/2020 Lê Đức L bị Cơ quan CSĐT công an thành phố Ninh Bình triệu tập lên làm việc.Tại cơ quan điều tra Lê Đức L đã viết đơn xin đầu thú về hành vi đánh bạc dưới hình thức mua bán các số lô, đề qua tin nhắn điện thoại di động với Hà Sơn B và Đặng Văn S ngày 9/9/2020 đồng thời giao nộp cho cơ quan điều tra 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo lắp sim 0911.821.621 mà Lê Đức L sử dụng để nhắn tin mua các số lô, số đề. Kiểm tra điện thoại của Lê Đức L có các tin nhắn mua bán số lô, đề giữa L với B và S. Cơ quan CSĐT công an thành phố Ninh Bình đã triệu tập Hà Sơn B lên làm việc, Hà Sơn B cũng viết đơn xin đầu thú về hành vi đánh bạc dưới hình thức mua bán các số lô, đề qua tin nhắn điện thoại với Lê Đức L và giao nộp cho cơ quan điều tra 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X lắp sim 0972.221.992 mà Hà Sơn B dùng để nhận các số đề của Lê Đức L, Hà Sơn B đã xóa các tin nhắn trong điện thoại giao nộp. Cùng ngày Đặng Văn S đã đến cơ quan công an làm việc và khai nhận hành vi mua bán số lô, số đề với Lê Đức L và giao nộp cho cơ quan công an 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 lắp sim 0913.014.040 mà Đặng Văn S dùng để nhận các số lô, đề của Lê Đức L, Đặng Văn S cũng xóa tin nhắn mua bán số lô, đề với Lê Đức L.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo lắp sim 0911.821.621 thu giữ của Lê Đức L; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X lắp sim 0972.221.992 thu giữ của Hà Sơn B Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình để giải quyết cùng vụ án; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 lắp sim 0913.014.040 thu giữ của Đặng Văn S cơ quan điều tra đã chuyển theo hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính.

* Tại Cơ quan điều tra Hà Sơn B, Lê Đức L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

* Tại cáo trạng số 179/CT- VKS, ngày 26 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình đã truy tố các bị cáo Lê Đức L, Hà Sơn B ra trước Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình để xét xử về tội “Đánh bạc” theo khoản 1, khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự.

* Tại phiên toà Kiểm sát viên tham gia phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố: các bị cáo Lê Đức L, Hà Sơn B phạm tội “Đánh bạc”. Áp dụng: khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Hà Sơn B từ 09 - 12 tháng cải tạo không giam giữ, bị cáo được trừ 06 ngày tạm giữ quy đổi thành 18 ngày cải tạo không giam giữ; Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với bị cáo tính từ ngày UBND phường N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản án; Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án; Gia đình bị cáo B có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo; Hàng tháng khấu trừ từ 05% - 7% thu nhập của bị cáo B để sung quỹ Nhà nước; Phạt tiền bổ sung bị cáo từ 10.000.000 đồng - 15.000.000 đồng để sung quỹ nhà nước. Xử phạt : Bị cáo Lê Đức L từ 09 - 12 tháng cải tạo không giam giữ, bị cáo được trừ 6 ngày tạm giữ quy đổi thành 18 ngày cải tạo không giam giữ; Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với bị cáo tính từ ngày UBND phường Đ, thành phố N, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản án; Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố N, tỉnh Ninh Bình nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án; Gia đình bị cáo L có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo; Hàng tháng khấu trừ từ 05% - 7% thu nhập của bị cáo L để sung quỹ Nhà nước; Phạt tiền bổ sung bị cáo từ 10.000.000 đồng - 15.000.000 đồng để sung quỹ nhà nước.

Các biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo lắp sim 0911.821.621 thu giữ của Lê Đức L; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X lắp sim 0972.221.992 thu giữ của Hà Sơn B. Buộc bị cáo Lê Đức L phải nộp lại số tiền đánh bạc là 7.800.000đồng để sung ngân sách nhà nước. Buộc bị cáo Hà Sơn B phải nộp lại số tiền đánh bạc là 10.000.000đồng để sung ngân sách nhà nước.

Các bị cáo bị xét xử nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

* Tại phiên tòa các bị cáo Lê Đức L, Hà Sơn B khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng, không có ý kiến tranh luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về tội danh, hình phạt đối với các bị cáo: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với nhau, phù hợp với đơn xin đầu thú, biên bản tiếp nhận người phạm tội đầu thú, lời khai, bản kiểm điểm của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như biên bản làm việc, vật chứng thu giữ, biên bản kiểm tra điện thoại, thông tin các số thuê bao điện thoại, biên bản kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc... Như vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 09/9/2020, tại địa bàn thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình, các bị cáo Lê Đức L, Hà Sơn B đã có hành vi đánh bạc trái phép dưới hình thức sử dụng điện thoại di động nhắn tin mua bán số lô, đề được thua bằng tiền cụ thể như sau: Lê Đức L nhắn tin mua bán số lô, đề với Hà Sơn B với số tiền dùng đánh bạc là 14.800.000 đồng; Lê Đức L nhắn tin mua bán số đề với Đặng Văn S với số tiền dùng đánh bạc là 3.000.000 đồng. Tổng số tiền Lê Đức L dùng đánh bạc với Hà Sơn B và Đặng Văn S là 17.800.000 đồng; Hà Sơn B dùng đánh bạc với Lê Đức L số tiền là 14.800.000 đồng. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất trật tự an ninh ở địa phương, ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội. Từ việc đánh bạc dẫn đến tiêu tán tài sản, kinh tế của nhiều gia đình, cá nhân và là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tội phạm khác. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ đánh bạc dưới hình thức chơi số lô, đề được thua bằng tiền là một hình thức đánh bạc bị Nhà nước cấm, nhưng vì lười lao động, muốn kiếm tiền nhanh chóng nên các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Để đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, có tác dụng giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung thì việc truy tố, xét xử và buộc các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự là cần thiết.

Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự . Về tình tiết tăng nặng: không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khi bị Cơ quan điều tra triệu tập lên làm việc các bị cáo đã đầu thú hành vi đánh bạc nên các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Các bị cáo phạm tội có tính chất đồng phạm giản đơn, đều là những người thực hiện. Bị cáo Hà Sơn B là người khởi sướng, chủ đề nhận các số lô, đề của Liêm và giữ lại để tự đối chiếu thanh toán thắng thua; Bị cáo Lê Đức L là người chơi, trong ngày 09/9/2020 trực tiếp nhắn tin cho bị cáo Hà Sơn B và anh Đặng Văn S mua số lô, đề, số tiền dùng đánh bạc nhiều hơn bị cáo Hà Sơn B 3.000.000 đồng nên vai trò của các bị cáo trong vụ án như nhau.

Căn cứ quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Các bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên chỉ cần áp dụng hình phạt chính là hình phạt cải tạo không giam giữ, giao các bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú để giám sát, giáo dục cũng đảm bảo tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội. Hình phạt của 2 bị cáo sẽ như nhau.

Các bị cáo làm nghề tự do, thu nhập không ổn định nên trong thời gian chấp hành án hàng tháng các bị cáo bị khấu trừ một phần thu nhập là 5% để sung quỹ nhà nước.

Các bị cáo bị tạm giữ 06 ngày (từ ngày 09/9/2020 đến ngày 15/9/2020), theo quy định tại Điều 36 BLHS các bị cáo được trừ 18 ngày cải tạo không giam giữ ( 1 ngày tạm giữ bằng 3 ngày cải tạo không giam giữ).

Về hình phạt bổ sung: theo khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự, các bị cáo thực hiện hành vi đánh bạc để thu lời bất chính nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền để sung quỹ nhà nước .

Từ nhận định trên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh, điều luật áp dụng và hình phạt đối với các bị cáo.

[4] Các vấn đề khác:

- Qúa trình điều tra xác định, anh Đặng Văn S có hành vi nhận các số đề của bị cáo Lê Đức L ngày 9/9/2020 với số tiền dùng đánh bạc là 3.000.000 đồng. Bản thân anh S chưa có tiền án, tiền sự về hành vi quy định tại Điều 321, Điều 322 của Bộ luật hình sự nên hành vi đánh bạc của anh Đặng Văn S chưa đủ yếu tố cấu thành tội “ Đánh bạc” theo quy định tại điều 321 Bộ luật hình sự. Ngày 06/11/2020 Công an tỉnh Ninh Bình đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 2356/QĐ-XPHC, phạt tiền 15.000.000 đồng về hành vi làm chủ lô, đề là có căn cứ, đúng pháp luật.

Các biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo lắp sim 0911.821.621 thu giữ của Lê Đức L; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X lắp sim 0972.221.992 thu giữ của Hà Sơn B đây là tài sản của các bị cáo dùng làm công cụ, phương tiện nhắn tin đánh bạc nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 lắp sim 0913.014.040 thu giữ của Đặng Văn S: Cơ quan điều tra đã chuyển theo hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính và xử lý trả lại cho anh S nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với số tiền dùng đánh bạc: Bị cáo Lê Đức L chưa trả số tiền mua số lô, đề cho bị cáo Hà Sơn B là 4.800.000 đồng và cho anh Đặng Văn S số tiền là 3.000.000 đồng; Bị cáo Hà Sơn B chưa trả cho bị cáo Lê Đức L số tiền trúng thưởng là 10.000.000 đồng nên cần buộc các bị cáo phải nộp lại số tiền dùng đánh bạc này để sung vào ngân sách nhà nước.

Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ :

- khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36; Điều 47 của Bộ luật hình sự. Điều 106; Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

- Tuyên bố: Các bị cáo Lê Đức L, Hà Sơn B phạm tội “ Đánh bạc”.

- Xử phạt:

+ Bị cáo Hà Sơn B 12 ( mười hai) tháng cải tạo không giam giữ, được trừ 6 ngày tạm giữ bằng 18 ngày cải tạo không giam giữ; Bị cáo còn phải chấp hành 11( mười một) tháng 12(mười hai) ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản án. Giao bị cáo Hà Sơn B cho Ủy ban nhân dân phường N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND phường N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Trong thời gian chấp hành án, hàng tháng bị cáo còn bị khấu trừ một phần thu nhập là 05% để nộp ngân sách Nhà nước. Phạt tiền bổ sung bị cáo Hà Sơn B số tiền 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng) để sung quỹ nhà nước.

+ Bị cáo Lê Đức L 12 ( mười hai) tháng cải tạo không giam giữ, được trừ 6 ngày tạm giữ bằng 18 ngày cải tạo không giam giữ; Bị cáo còn phải chấp hành 11( mười một) tháng 12(mười hai) ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố N, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản án. Giao bị cáo Lê Đức L cho Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố N, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND phường Đông Thành, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Trong thời gian chấp hành án, hàng tháng bị cáo còn bị khấu trừ một phần thu nhập là 05% để nộp ngân sách Nhà nước. Phạt tiền bổ sung bị cáo Lê Đức L số tiền 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng) để sung quỹ nhà nước.

- Các biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo lắp sim 0911.821.621 số Imei 1: 868.797.049.869.979, số Imei 2:

868.797.049.869.961 thu giữ của Lê Đức L; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X, số Imei 353.044.094.071.934, lắp sim 0972.221.992 thu giữ của Hà Sơn B ; (tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/12/2020 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Ninh Bình và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình).

Buộc bị cáo Lê Đức L phải nộp lại số tiền dùng đánh bạc là 7.800.000đồng (bảy triệu tám trăm nghìn đồng ) để sung vào ngân sách nhà nước.

Buộc bị cáo Hà Sơn B phải nộp lại số tiền dùng đánh bạc là 10.000.000đồng (mười triệu đồng) để sung vào ngân sách nhà nước.

- Về án phí: Các bị cáo Lê Đức L, Hà Sơn B mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Áp dụng Điều 26 Luật Thi hành án dân sự: “Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/HS-ST ngày 05/01/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:01/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về