Bản án 01/2021/HNGĐ-ST ngày 28/01/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHƯỚC LONG – TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 01/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 28 tháng 01 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phước Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 266/2020/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 191/2020/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hồng N, sinh năm 1992; Địa chỉ: ấp H, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bạc Liêu. (Vắng mặt)

2. Bị đơn: Anh Phan Văn B, sinh năm 1983; Địa chỉ: ấp H, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bạc Liêu. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, lời khai có trong hồ sơ vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng N trình bày:

Về hôn nhân: Chị và và anh B tự nguyện sống chung từ năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn P và được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 27/4/2011. Vợ chồng chị đã ly thân từ tháng 3/2020 đến nay do thường xuyên mâu thuẫn, sống chung không hợp. Nay chị yêu cầu được ly hôn với anh B.

Về con chung: Chị và anh B có hai người con chung là Phan Bình Nh, sinh ngày 30/5/2009 và Phan Bình Tr, sinh ngày 18/6/2012, hiện đang sống với chị. Chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng hai người con chung và không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Theo lời khai có trong hồ sơ vụ án bị đơn anh Phan Văn B trình bày:

Về hôn nhân: Anh trình bày thống nhất với lời khai của chị N về thời gian sống chung, đăng ký kết hôn và ly thân. Nay chị N yêu cầu ly hôn thì anh không đồng ý ly hôn do còn thương vợ và muốn hàn gắn hôn nhân để nuôi con.

Về con chung: Anh và chị N có hai người con chung như chị N trình bày là đúng. Nếu ly hôn anh đồng ý giao hai người con chung cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng và không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Anh thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phước Long phát biểu ý kiến:

- Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử đúng theo quy định pháp luật tố tụng dân sự; Đối với nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng, bị đơn chưa chấp hành quy định tại khoản 15, 16 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án:

+ Về hôn nhân: Căn cứ theo khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, cho chị N được ly hôn với anh B.

+ Về con chung: Tiếp tục giao cháu Phan Bình Nh, sinh ngày 30/5/2009 và Phan Bình Tr, sinh ngày 18/6/2012 cho chị N được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Anh B có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

+ Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

+ Về án phí: Chị N phải chịu 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Về thẩm quyền và thủ tục tố tụng: Chị N khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh B, anh B đang cư trú trên địa bàn huyện P nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án nhân dân huyện Phước Long thụ lý và giải quyết là đúng thẩm quyền. Anh B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt, chị N có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử giải quyết vắng mặt chị N và anh B là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về hôn nhân: Chị N và anh B tự nguyện sống chung từ năm 2008 và có đăng ký kết hôn đúng theo quy định nên hôn nhân giữa chị N và anh B là hôn nhân hợp pháp, tuy nhiên trong quá trình sống chung chị N và anh B xảy ra mâu thuẫn mà không hàn gắn được. Xét thấy theo quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn Tr, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình, sống chung với nhau nhưng chị N và anh B không sống chung với nhau. Anh B xác định còn thương vợ nên muốn hàn gắn hôn nhân, nhưng anh B không đưa ra được biện pháp nào để hàn gắn hôn nhân, mặt khác anh B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh B không đến, cho thấy anh B đã bỏ mặc quan hệ hôn nhân này. Trong khi đó, chị N xác định không còn cảm với anh B và cương quyết ly hôn. Từ đó cho thấy hôn nhân của chị N và anh B đã lâm vào tình trạng trầm Tr, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên căn cứ theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị N, cho chị N được ly hôn với anh B.

[4] Về con chung: Chị N và anh B thống nhất có hai người con chung là Phan Bình Nh, sinh ngày 30/5/2009 và Phan Bình Tr, sinh ngày 18/6/2012, hiện đang sống chung với chị N. Chị N yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng hai người con chung và anh B đồng ý giao con chung cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng. Điều này cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu Nh và cháu Tr tại biên bản lấy ý kiến ngày 11/11/2020 và ngày 26/11/2020 nên Hội đồng xét xử ghi nhận. Do đó, căn cứ theo quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, giao cháu Phan Bình Nh, sinh ngày 30/5/2009 và Phan Bình Tr, sinh ngày 18/6/2012 cho chị N được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Anh B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

[5] Về cấp dưỡng: Chị N xác định đủ điều kiện nuôi con chung, không yêu cầu anh B cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[6] Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[7] Từ những nhận định trên, xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về án phí: Chị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định. Anh B không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ vào các Điều 19, 56, 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ vào Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Hồng N ly hôn anh Phan Văn B.

2. Về con chung: Giao cháu Phan Bình Nh, sinh ngày 30/5/2009 và Phan Bình Tr, sinh ngày 18/6/2012 cho chị Nguyễn Thị Hồng N được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Anh Phan Văn B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

3. Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Hồng N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không có giá ngạch là 300.000 đồng. Chị N đã dự nộp số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009615 ngày 23/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phước Long nên được chuyển sang thu án phí.

Anh Phan Văn B không phải chịu án phí.

5. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/HNGĐ-ST ngày 28/01/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:01/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phước Long - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về