Bản án 01/2021/HNGĐ-ST ngày 11/01/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 01/2021/HNGĐ-ST NGÀY 11/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH 

Ngày 11 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 204/2020/TLST - HNGĐ ngày 14 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp Hôn nhân gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 18/12/2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Lệ Q, sinh năm 1994 (có đơn xin xét xử vắng mặt)

- Bị đơn: Anh Đàm Văn C, sinh năm 1992 (vắng mặt) Cùng nơi cư trú: Tổ 1, thị trấn TC, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ly hôn đề ngày 08/10/2020, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Đặng Thị Lệ Q trình bày như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Đàm Văn C kết hôn năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn TC, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên trên cơ sở tự nguyện và có tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại tổ 1, thị trấn TC, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Tới cuối năm 2017 vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn, hay cãi nhau, nguyên nhân do anh C bỏ bê công việc, không chịu khó làm ăn, thường xuyên uống rượu, mỗi lần say về nhà lại chửi và đánh mắng mẹ con chị. Chị đã nhiều lần khuyên bảo anh C tu chí làm ăn lo cho vợ con nhưng anh C không thay đổi. Hiện tại, vợ chồng chị đã ly thân khoảng 1 tháng nay, không còn quan tâm hỏi han gì đến nhau nữa.

Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh C.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Đàm Tuấn H, sinh ngày 02/07/2013 và Đàm Thị Y, sinh ngày 01/08/2017. Hiện con lớn Đàm Tuấn H đang ở với anh C tại nhà bà nội, con bé Đàm Thị Y đang ở cùng với chị. Tại đơn xin ly hôn và bản tự khai, chị đề nghị vợ chồng mỗi người nuôi một con. Tuy nhiên, tại đơn xin xét xử vắng mặt, chị trình bày nguyện vọng được nuôi cả hai con vì lý do anh C vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, không có ý kiến gì về việc nuôi con nên chị xin nuôi cả hai con để đảm bảo quyền lợi của các con, chị không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại đơn xin xét xử vắng mặt ghi ngày 08/01/2021, chị Q vẫn giữ nguyên quan điểm xin ly hôn và quan điểm về con chung, tài sản chung, nợ chung.

Bị đơn anh Đàm Văn C vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên không có lời khai. Tại các Biên bản xác minh của Tòa án tại gia đình anh C, bà Nguyễn Thị L - mẹ đẻ của anh C cho biết: Vợ chồng chị Q anh C kết hôn năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn TC trên cơ sở tự nguyện, có được tìm hiểu nhau trước khi kết hôn và được gia đình hai bên tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với gia đình nhà chồng tại tổ 1, thị trấn TC, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên khoảng một năm, sau đó vợ chồng ra ở riêng. Triong quá trình chung sống, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn do anh C thường xuyên uống rượu, mỗi lần say về nhà không làm chủ được bản thân. Gia đình hai bên nội ngoại đã khuyên ngăn nhưng anh C không thay đổi. Hiện tại anh C và cháu H đã về nhà bà sống khoảng 1 tháng nay. Anh C đi làm thợ xây sáng đi làm tối vẫn về nhà, nhưng làm ở đâu, địa chỉ cụ thể thì bà không nắm được. Anh C đã biết việc chị Q xin ly hôn nhưng anh có nói với bà rằng anh bận đi làm ăn, không thể sắp xếp công việc đến Tòa án được, anh đồng ý ly hôn với chị Q vì tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn. Anh đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật. Về con chung, anh C không có ý kiến gì. Theo ý kiến của bà, nếu vợ chồng anh C ly hôn, nên để 02 con cho chị Q nuôi vì anh C không có đủ khả năng nuôi con.

Tại biên bản làm việc của Tòa án ngày 20/10/2020, cháu Đàm Tuấn H xác định cháu đang ở với bố. Nguyện vọng của cháu là muốn được ở với bố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa: tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn chấp hành đúng các quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn chưa chấp hành các quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều: 21, 28, 39, 147, 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều: 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn chị ĐặngThị Lệ Q, cho chị Q được ly hôn anh C.

Về con chung: Giao 02 con chung là Đàm Tuấn H và Đàm Thị Y cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh C vì chị Q không yêu cầu.

Về tài sản chung, nợ chung: Không giải quyết.

Về án phí: Chị Q phải nộp 300.000đ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về tố tụng:

Đây là vụ án tranh chấp về Hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trong vụ án này, bị đơn thường trú tại tổ 1, thị trấn TC, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trước khi mở phiên tòa, nguyên đơn chị Đặng Thị Lệ Q có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn chị Đặng Thị Lệ Q. Đối với bị đơn anh Đàm Văn C, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng anh C vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Tòa án cũng đã hai lần tống đạt hợp lệ Giấy triệu tập phiên tòa cho bị đơn nhưng tại phiên tòa lần thứ hai, anh C vẫn vắng mặt nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Đàm Văn C.

[2] Về nội dung:

Chị Đặng Thị Lệ Q và anh Đàm Văn C kết hôn năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn TC, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên trên cơ sở tự nguyện nên là cuộc hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Về tình trạng hôn nhân, căn cứ lời khai của nguyên đơn và nội dung biên bản xác minh của Tòa án, có cơ sở xác định: Sau khi kết hôn, chị Q và anh C đã chung sống hạnh phúc trong những năm đầu, đến cuối năm 2017, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn vì lý do anh C mải chơi, không tu chí làm ăn, hay uống rượu, mỗi lần say rượu về nhà lại gây chuyện với vợ. Mặc dù gia đình hai bên đã khuyên nhủ nhưng anh C không thay đổi dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, chị Q đã về nhà ngoại ở. Hiện tại, chị Q và anh C sống ly thân, không quan tâm gì đến nhau nữa. Theo quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014:

“1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác”.

Trong trường hợp này, chị Q và anh C thực tế đã không còn thương yêu, quan tâm, chung sống với nhau nữa. Mặt khác, anh C đã biết việc Tòa án đang giải quyết vụ án ly hôn của vợ chồng mình nhưn g anh đồng ý ly hôn, không có mong muốn níu kéo cuộc hôn nhân. Điều đó cho thấy, tình trạng hôn nhân của chị Q và anh C đã trở nên mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng không còn tình cảm và không thể chung sống được với nhau nữa, vi phạm quy định về tình nghĩa vợ chồng theo Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình. Nếu tiếp tục kéo dài cuộc hôn nhân cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai bên. Do vậy, có căn cứ chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Q, cho chị Q được ly hôn anh C là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

+ Về con chung: Chị Q và anh C có 02 con chung là Đàm Tuấn H, sinh ngày 02/07/2013 và Đàm Thị Y, sinh ngày 01/08/2017, hiện cháu H đã đủ 7 tuổi và đang ở với anh C, cháu có nguyện vọng muốn được tiếp tục ở với bố; cháu Yến còn nhỏ đang ở với chị Q. Chị Q có nguyện vọng được nuôi cả hai con, không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử thấy, mặc dù cháu Đàm Tuấn H có nguyện vọng muốn được ở với bố nhưng trong suốt quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, anh C đều vắng mặt, không có lời khai nên không có căn cứ giao con cho anh C nuôi dưỡng. Do vậy, xét yêu cầu xin nuôi con của chị Q là có căn cứ chấp nhận, cần giao cả hai con chung là cháu H và cháu Y cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung thành niên đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác. Anh C có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho anh C vì chị Q không yêu cầu.

Vì lợi ích của con, sau khi ly hôn, các đương sự có quyền thỏa thuận hoặc có quyền khởi kiện về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc về việc cấp dưỡng nuôi con nếu thấy cần thiết.

+ Về tài sản chung, nợ chung: Chị Q xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh C vắng mặt, không có ý kiến gì nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[3] Về án phí:

Căn cứ Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Q phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm sung quỹ nhà nước.

Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tố tụng và nội dung giải quyết vụ án là có cơ sở chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 19, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình 2014; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ p hí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Đặng Thị Lệ Q đối với anh Đàm Văn C.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị Lệ Q được ly hôn anh Đàm Văn C.

2. Về con chung: Chị Q và anh C có 02 con chung là Đàm Tuấn H, sinh ngày 02/07/2013 và Đàm Thị Y, sinh ngày 01/08/2017. Giao 02 con chung Đàm Tuấn H và Đàm Thị Y cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi) hoặc đến khi có sự thay đổi khác. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho anh C vì chị Q không yêu cầu. Anh C có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không giải quyết.

4. Án phí: Chị Đặng Thị Lệ Q phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung quỹ Nhà nước. Được trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0016780 ngày 14/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

Chị Q, anh C được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/HNGĐ-ST ngày 11/01/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình 

Số hiệu:01/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Định Hóa - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về