Bản án 01/2021/HNGĐ-ST ngày 11/01/2021 về kiện xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 01/2021/HNGĐ-ST NGÀY 11/01/2021 VỀ KIỆN XIN LY HÔN

Trong ngày 11 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 291/2020/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 10 năm 2020 về kiện xin ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 129/ 2020/ QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 11 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 91/2020/QĐST –HNGĐ ngày 16 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1, Nguyên đơn: Anh Nguyễn Anh T, sinh năm 1975 Nơi ĐKNKTT: Thôn S, xã N, thành phố H, tỉnh Quảng Bình. Có mặt tại phiên tòa.

2, Bị đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1978 (Đã bị tuyên bố mất tích theo Quyết định giải quyết việc dân sự số 11/2020/QĐST-VDS ngày 21/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới có hiệu lực pháp luật). Nơi cư trú cuối cùng trước khi mất tích: Thôn S, xã N, thành phố H, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 15/10/2020, được bổ sung tại bản tự khai cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn anh Nguyễn Anh T trình bày: anh Nguyễn Anh T kết hôn có đăng ký hợp pháp với chị Phạm Thị H, sinh năm 1978 vào ngày 09/3/2001 tại UBND xã N trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị chung sống và làm việc tại Thôn S, xã N, thành phố H, tỉnh Quảng Bình. Vợ chồng anh chị sinh được 02 người con, cho đến tháng 12 năm 2010 chị H bỏ nhà đi không báo cho gia đình, gia đình không có tin tức gì của chị H. Từ khi chị H bỏ đi anh T và gia đình đã tìm kiếm chị H qua bạn bè, người thân trong gia đình nhưng không có tin tức gì của chị H. Nên anh T đã làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố chị Phạm Thị H mất tích. Hiện bố mẹ vợ của anh đã mất, anh có hỏi thăm tin tức qua em vợ là anh Phạm Đình Q nhưng cũng không có tin tức gì. Anh Q cũng đồng ý để anh yêu cầu Tòa án tuyên bố vợ anh là chị Phạm Thị H mất tích. Ngày 21/9/2020 Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới đã có quyết định số 11/2020/QĐST –VDS tuyên bố chị Phạm Thị H mất tích, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Từ ngày đó cho đến nay chị Phạm Thị H cũng không về nhà, không ai có tin tức gì về chị. Vợ chồng không sống chung với nhau đã lâu, chị Phạm Thị H không có trách nhiệm gì với gia đình. Vì vậy, tình cảm vợ chồng không còn nên anh T xin được ly hôn để xây dựng hôn nhân và cuộc sống mới.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Phạm Ngọc A, sinh ngày 05/11/2000 và cháu Nguyễn Anh T, sinh ngày 24/3/2007. Nguyện vọng sau khi ly hôn anh T được quyền nuôi con, không yêu cầu chị Phạm Thị H đóng góp cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do bị đơn chị Phạm Thị H đã được Tòa án tuyên bố mất tích; Thông báo thụ lý vụ án, văn bản tố tụng và giấy triệu tập chị Phạm Thị H đến Tòa án đã được niêm yết công khai tại nơi cư trú cuối cùng của chị Phạm Thị H nhưng chị Phạm Thị H không gửi văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và không đến Tòa theo giấy triệu tập. Mặt khác xét thấy đã có căn cứ xác định chị Phạm Thị H đã mất tích nên việc hòa giải không thể tiến hành được.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ đơn khởi kiện của Nguyên đơn, đây là vụ án dân sự về “Ly hôn” quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn đã bị tuyên bố mất tích có nơi cư trú cuối cùng tại xã N, thành phố H; căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới.

[1.2] Về sự vắng mặt của bị đơn: Quá trình giải quyết vụ án do bị đơn đã bị tuyên bố mất tích không thể trực tiếp tống đạt văn bản tố tụng, Tòa án đã niêm yết thông báo thụ lý vụ án, thông báo triệu tập cho bị đơn chị Phạm Thị H tại nơi cư trú cuối cùng, nhưng chị Phạm Thị H không gửi văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện. Tòa án đã niêm yết quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập đến phiên tòa, đã hoãn phiên tòa lần thứ nhất theo quy định tại khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự. Quyết định hoãn phiên tòa đã tống đạt hợp lệ nhưng bị đơn vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai mà không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn chị Phạm Thị H theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung tranh chấp:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: anh Nguyễn Anh T và chị Phạm Thị H xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cấp có thẩm quyền. Vì vậy, hôn nhân của hai người là hoàn toàn hợp pháp; anh chị đã có thời gian chung sống với nhau. Lẽ ra anh chị phải biết thương yêu, tôn trọng nhau, cùng nhau chia sẻ khó khăn xây dựng gia đình hạnh phúc. Nhưng ngược lại anh chị đã không làm được điều đó để giữ gìn hôn nhân bền vững. Chị Phạm Thị H bỏ nhà đi biệt tích, hai bên không thực hiện quyền và nghĩa vụ vợ chồng trong nhiều năm nay; chị H bỏ mặc anh T một mình không có tin tức liên lạc với chồng, anh T đã yêu cầu Tòa án tuyên bố chị H mất tích; Tòa án đã thông báo tìm kiếm chị H trên phương tiện thông tin trung ương nhưng chị Phạm Thị H vẫn không có tin tức gì; Quyết định tuyên bố chị Phạm Thị H mất tích đã có hiệu lực pháp luật. Từ đó cho đến nay chị Phạm Thị H cũng không về nhà cũng không ai có tin tức gì về chị Phạm Thị H. Điều này chứng tỏ mục đích của hôn nhân không đạt được, vợ chồng không thể sống chung nên Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải cho vợ chồng ly hôn là hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về quan hệ con chung: anh T khai vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Phạm Ngọc A, sinh ngày 05/11/2000 và cháu Nguyễn Anh T, sinh ngày 24/3/2007.

Nguyện vọng sau khi ly hôn anh T được quyền trực tiếp nuôi con, không yêu cầu chị Phạm Thị H đóng góp cấp dưỡng nuôi con. Xét nguyện vọng của anh T muốn được trực tiếp nuôi con chung, Hội đồng xét xử thấy rằng từ khi con còn nhỏ đến nay anh T một mình nuôi con, chị Phạm Thị H đã bỏ đi không còn quan tâm chăm sóc con chung. Riêng cháu Nguyễn Phạm Ngọc A, sinh ngày 05/11/2000 đã trưởng thành nên Hội đồng xét xử không xem xét. Cháu Nguyễn Anh T hiện đang còn nhỏ và ở cùng bố đã ổn định về mọi mặt. Tại đơn trình bày nguyện vọng ngày 26/10/2020, cháu Nguyễn Anh T mong muốn được ở cùng bố tại thôn S, xã N, thành phố H, tỉnh Quảng Bình. Trong khi đó chị Phạm Thị H đã mất tích nên cần chấp nhận yêu cầu của anh T, giao cháu Nguyễn Anh T, sinh ngày 24/3/2007 cho anh T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con: anh T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, trong khi đó chị H đã mất tích nên dành quyền khởi kiện bằng vụ kiện dân sự khác về tài sản chung cho hai bên đương sự.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Anh T phải chịu án phí dân sự ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Áp dụng khoản 2 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện, cho anh Nguyễn Anh T được ly hôn chị Phạm Thị H.

2. Về quan hệ con chung: Xử giao con chung cháu Nguyễn Anh T, sinh ngày 24/3/2007 cho anh Nguyễn Anh T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom chăm sóc con chung;

không ai được ngăn cản người đó thực hiện quyền này.

Riêng cháu Nguyễn Phạm Ngọc A, sinh ngày 05/11/2000 đã trưởng thành nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc anh Nguyễn Anh T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn để sung quỹ Nhà nước. Số tiền anh Nguyễn Anh T phải nộp được khấu trừ từ số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí anh Nguyễn Anh T đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới theo biên lai số AA/2017/ 0006710 ngày 26 tháng 10 năm 2020.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 11/01/2021); đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/HNGĐ-ST ngày 11/01/2021 về kiện xin ly hôn

Số hiệu:01/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Hới - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về