Bản án 01/2021/HNGĐ-ST ngày 05/01/2021 về tranh chấp ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 01/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 05/01/2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 339/2020/TLST - HNGĐ ngày 21 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:152/2020/QĐXX-ST ngày 05 tháng 12 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 152/2020/QĐST –HNGĐ ngày 18/12/2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đậu Thị G ; sinh năm 1995. Địa chỉ: Xóm , xã B T, huyện Y T , Nghệ An ( có mặt) - Bị đơn: Anh Trịnh Đình Tr ; sinh năm 1986. Địa chỉ: Xóm , xã B T, huyện Y T , Nghệ An ;Vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn đề ngày 25/9/2020 và các lời khai, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn Chị Đậu Thị G trình bày: Chị Đậu Thị G và Anh Trịnh Đình Tr đăng ký kết hôn ngày 07/7/2014, tại Uỷ ban nhân dân xã B T, huyện Y T , tỉnh Nghệ An. Hôn nhân hoàn toàn tự nguyện. Quá trình chung sống vợ chồng sống hạnh phúc được hơn bốn năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh Tr không quan tâm chăm sóc gia đình, con cái, anh Tr thường xuyên đi chơi, không chí thú làm ăn, dẫn đến tình cảm ngày càng phai nhạt, bất đồng quan điểm sống. Vợ chồng sống ly thân từ đầu năm 2019 đến nay. Nay chị Đậu Thị G xác định tình cảm không còn nên chị Đậu Thị G đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Trịnh Đình Tr .

Về con chung: Vợ chồng có 02 người con chung; tên là cháu Trịnh Thị Q Ch sinh ngày 02/7/2014 và cháu Trịnh Nguyên A T sinh ngày 23/02/2019 ; Hiện nay cháu Q Ch đang được bà nội ( mẹ của Tr ) nuôi dưỡng và cháu A T đang được Chị Đậu Thị G trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Đậu Thị G yêu cầu được nuôi cháu Trịnh Thị Q Ch trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi trưởng thành, cháu Trịnh Nguyên A T và chị G nhường quyền nuôi cháu A T cho anh Tr chăm sóc nuôi dưỡng, chị G không yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và vay nợ của vợ chồng: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên Toà và căn cứ vào kết quả xét hỏi, tranh luận tại phiên Toà, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1].Về thẩm quyền xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án yêu cầu ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Yên Thành.

Quá trình giải quyết vụ án bị đơn Anh Trịnh Đình Tr không nhận thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp tiếp cận kiểm tra công khai chứng cứ và hòa giải, Tòa án đã giao trực tiếp cho bà Nga mẹ đẻ của anh Tr có cùng hộ khẩu cứ trú, bà Nga cũng không nhận buộc Tòa án phải niêm yết các thủ tục tố tụng tại nhà văn hóa xóm và UBND xã B T . Nhưng bị đơn không thực hiện quyền tham gia tố tụng của mình theo quy định của pháp luật không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, từ chối khai báo cho thấy bị đơn không quan tâm đến quan hôn nhân với nguyên đơn, vì vậy Tòa án không thể tiến hành hòa giải theo quy định pháp luật. Tòa án đã ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử, hoãn phiên tòa đúng thủ tục tố tụng dân sự, nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do, xét thấy cần thiết xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo quy định tại điều 70, khoản 1 điều 207, điều 208, điểm b khoản 2 điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2].Về quan hệ hôn nhân: Chị Đậu Thị G và anh Trịnh Đình Tr có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã B T, huyện Y T , tỉnh Nghệ An theo Giấy chứng nhận kết hôn số 38/2014/TLKH - BS ngày 07/7/2014, không vi phạm Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình về điều kiện kết hôn. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

Xét thấy: Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được hơn bảy năm, quá trình chung sống vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do do bất đồng quan điểm sống, không tôn trọng, vun vén xây dựng hạnh phúc gia đình nên vợ chồng thường xẩy ra mâu thuẫn dẫn đến tình cảm không còn. Vợ chồng sống ly thân từ đầu năm 2019 đến nay, Mục đích hôn nhân không đạt được. Xác định tình cảm không còn chị Đậu Thị G cương quyết xin được ly hôn. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chị Đậu Thị G được ly hôn với anh Trịnh Đình Tr .

[3].Về con chung: Chị Đậu Thị G và anh Trịnh Đình Tr có 02 người con chung; tên là Trịnh Thị Q Ch sinh ngày 02/7/2014 và cháu Trịnh Nguyên A T sinh ngày 23/02/2019. Hiện nay cháu A T đang được chị Đậu Thị G trực tiếp nuôi dưỡng, cháu Q Ch đang được bà nội ( mẹ của Tr ) nuôi dưỡng. Chị Đậu Thị G yêu cầu được nuôi cháu Trịnh Thị Q Ch nhường quyền nuôi cháu A T cho anh Tr nuôi dưỡng, nhưng xét thấy quá trình giải quyết vụ án anh Tr không có mặt tại phiên tòa nên không thể giao con cho anh Tr nuôi dưỡng, về mặt pháp lý thì cháu A T sinh ngày 23/02/2019 chưa đủ 36 tháng tuổi buộc phải giao cho mẹ chăm sóc nuôi dưỡng. Từ những căn cứ nêu trên cần giao hai cháu Q Ch và A T cho chị Đậu Thị G trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục các cháu cho đến khi đủ 18 tuổi,trưởng thành là hợp lý, đúng quy định của Pháp luật. Chị G không yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con chung nên Tòa án không xem xét.

[4].Về tài sản chung và khoản nợ: Chị Đậu Thị G không yêu cầu giải quyết nên Toà án không xem xét.

[5].Về án phí: Chị Đậu Thị G phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 điều 144, khoản 4 điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 khoản 3 điều 228 ; Điều 266, 271 khoản 1 điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 điều 56, điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí của tòa án.

Xử;

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Đậu Thị G được ly hôn anh Trịnh Đình Tr .

2. Về con chung: Giao con chung tên là Trịnh Thị Q Ch sinh ngày 02/7/2014 và cháu Trịnh Nguyên A T sinh ngày 23/02/2019 cho Chị Đậu Thị G được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến khi con đủ 18 tuổi, trưởng thành.

- Về cấp dưỡng nuôi con chung không có yêu cầu nên không giải quyết.

Vì lợi ích mọi mặt của con thì các bên đương sự có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu mức cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3.Về án phí: Chị Đậu Thị G phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000đ mà Chị Đậu Thị G đã nộp tại chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Thành theo biên lai thu tiền số 002711 ngày 24 /10/2020.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày niêm yết hoặc nhận bản sao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

333
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/HNGĐ-ST ngày 05/01/2021 về tranh chấp ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:01/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về