Bản án 01/2020/HS-ST ngày 16/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHƯỚC, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 01/2020/HS-ST NGÀY 16/01/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 01 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 48/2019/TLST- HS, ngày 25 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2073/2019/QĐXXST- HS ngày 31 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:

Đào Thanh V, sinh năm 1997, tại huyện T, tỉnh Bình Định; nơi cư trú thôn C, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Ngọc S (chết) và bà Lê Thị N; vợ, con chưa có, tiền sự: không; tiền án: Ngày 02/8/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định tuyên phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản” chấp hành xong hình phạt vào ngày 02/8/2018. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Vợ chồng anh Nguyễn Ngọc P, sinh năm 1974 và chị Trần Thị Minh K, sinh năm 1977; nơi cư trú thôn T, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định, vắng mặt và có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thành T, sinh năm 2000; nơi cư trú thôn Q, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định, có mặt.

- Người làm chứng:

1. Nguyễn Lệ H, sinh năm 1978, nơi cư trú khu phố K, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

2. Võ Ngọc C, sinh năm 1976; nơi cư trú 01 ấp P, xã B, huyện C, Bến Tre, vắng mặt.

3. Nguyễn Văn M, sinh năm 1972; nơi cư trú thôn Q, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào chiều ngày 14/3/2019, Nguyễn Thành T rủ Đào Thanh V đi tìm gà cồ đá để bắt trộm bán lấy tiền tiêu xài thì V đồng ý. Khi đi T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 61F8-5470 (chiếc xe này do T mua từ một người không rõ tên tuổi, lai lịch để sử dụng làm phương tiện đi lại) chở V. Khi đến nhà chị Trần Thị Minh K thì T và V thấy tại sân nhà chị K có nuôi 01 con gà cồ đá, nên nảy sinh ý định bắt trộm con gà này nhưng vì xung quanh nhà chị K có hàng rào lưới B40 nên V và T bàn nhau đến tối sẽ quay lại bắt trộm. Khoảng 21 giờ cùng ngày, T chuẩn bị 01 cái kiềm cộng lực và 01 đèn pin cầm tay rồi đưa cho V giữ; T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 61F8-5470 chở V quay lại nhà chị K. Đến nơi, vì nhà chị K còn mở cửa, đèn ngoài cổng còn sáng nên T và V ngồi đợi ở bên ngoài. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, thấy nhà chị K đã đóng cửa, tắt đèn nên T đứng bên ngoài cảnh giới, còn V sử dụng kiềm cộng lực cắt hàng rào lưới B40 để làm lối ra vào rồi lén lút đi tới chuồng gà bắt trộm 01 con gà cồ đá mang đến chỗ T đợi ở bên ngoài. Sau đó T điều khiển xe mô tô chở V đi về thì bị Công an xã Phước T phát hiện, thu giữ.

Theo bản kết luận định giá tài sản số 38/KL-HĐ ngày 18/3/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tuy Phước: 01 con gà cồ đá màu lông đen, chân màu xanh, mồng dâu, trọng lượng 3,1 kg có giá trị thành tiền là 310.000 đồng (ba trăm mười nghìn đồng).

Tại phiên tòa bị cáo Đào Thanh V khai nhận vào ngày 14/3/2019, Nguyễn Thành T rủ bị cáo đi dạo tìm nhà dân có nuôi gà cồ đá để bắt trộm bán lấy tiền tiêu xài thì bị cáo đồng ý. T chở bị cáo đi dạo đến thôn T, xã P thì phát hiện nhà chị Trần Thị Minh K có nuôi gà cồ đá nhốt ở ngoài sân nên bị cáo và T bàn bạc đi về nhà tối sẽ quay lại bắt gà. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, T mang theo 01 cái kiềm và 01 đèn pin đưa bị cáo cầm, rồi T chở bị cáo quay trở lại nhà chị K, vì nhà còn sáng đèn, mở cửa nên cả hai ngồi đợi, đến khoảng 23 giờ thấy nhà chị K đã đóng cửa, tắt đèn nên T đứng bên ngoài cảnh giới, bị cáo cầm kiềm cắt lưới B40 dùng đèn pin rọi tìm bắt được 01 con gà cồ đá, lông màu đen rồi quay ra chỗ T, bị cáo lấy 01 bao rác bên đường để bỏ gà rồi cùng T quay về thì bị Công an phát hiện, thu giữ.

Tại bản Cáo trạng số 01/CT-VKS-TP ngày 17 tháng 12 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định đã truy tố bị cáo Đào Thanh V về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Mặc dù đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản và chưa được xóa án tích, nhưng vì ý thức xem thường pháp luật, lười biếng lao động lại muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên vào ngày 14/3/2019 tại thôn T, xã Phước T, huyện T, tỉnh Bình Định, Đào Thanh V đã lén lút trộm cắp 01 con gà cồ đá màu lông đen, chân màu xanh, mồng dâu, trọng lượng 3,1 kg của anh Nguyễn Ngọc P có giá trị thành tiền là 310.000 đồng (ba trăm mười nghìn đồng), do đó Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 06 đến 09 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị không xét.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy 01 (một) kiềm cộng lực dài 30cm bằng sắt, cán bọc tay cầm bằng nhựa màu đen, phần kim loại màu xanh, tổng chiều dài cán là 23cm; 01 (một) đèn pin có chui sạc điện, vỏ nhựa màu đen- trắng- đỏ và 01 (một) chiếc bao nhựa màu xanh trắng.

- Đối với 01 (một) chiếc xe mô tô dáng Wave, vỏ nhựa màu đen, số khung 200100033, số máy VPF1P52FMH340004647, biển kiểm soát 61F8-5470 (tình trạng hiện tại: bị rỉ sét, mờ số khung) của Nguyễn Thành T mua của một người không rõ lai lịch; hiện chưa xác minh được nguồn gốc, nên đề nghị giao cho Công an huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng.

Bị cáo Đào Thanh V không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.

Trong lời nói sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Tuy Phước, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phước và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Quá trình điều tra và tại phiên tòa những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, phù hợp với vật chứng thu giữ được và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án do cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đã thu thập, nên có đầy đủ căn cứ để xác định vào ngày 14/3/2019, bị cáo Đào Thanh V đã cùng với Nguyễn Thành T lén lút bắt trộm 01 con gà cồ đá lông màu đen, chân màu xanh, mồng dâu, trọng lượng 3,1 kg của vợ chồng anh Nguyễn Ngọc P và chị Trần Thị Minh K.

[3] Xét tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo là người có đầy đủ khả năng để nhận thức được việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì muốn có tiền để tiêu xài cá nhân nên bị cáo đã bất chấp pháp luật. Bị cáo là người có tiền án vào ngày 02/8/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định xử phạt 06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt vào ngày 02/8/2018 chưa được xóa án tích thì bị cáo tiếp tục phạm tội, tuy tài sản bị cáo trộm có giá trị là 310.000 đồng (ba trăm mười nghìn đồng) nhưng bị cáo đã bị kết án về tội này, nên hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự, do đó mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo phải nghiêm khắc để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung tội phạm.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng trong vụ án này bị cáo không có tình tiết tăng nặng, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Đối với Nguyễn Thành T là người rủ rê, chuẩn bị công cụ, phương tiện cùng với Đào Thanh V đi trộm cắp, tuy nhiên tài sản mà T và V trộm có giá trị dưới 2.000.000 đồng (hai triệu đồng), về nhân thân T chưa có tiền án, tiền sự nên hành vi của T không cấu thành tội trộm cắp tài sản. Do vậy, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Phước không xử lý hình sự đối với T là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đào Thanh V còn có hành vi sử dụng kiềm cắt hàng rào lưới B40 của nhà chị Trần Thị Minh K, nhưng chị K đã tự khắc phục, sửa chữa phần hư hỏng và không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự đối với phần hư hỏng này, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để định giá phần hư hỏng mà V đã gây ra để xử lý theo quy định của pháp luật.

[5] Xét về bồi thường thiệt hại: Ngày 15/3/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Phước ra Quyết định xử lý vật chứng: Trả lại 01 (một) con gà cồ đá cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Ngọc P, anh P chị K không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự nữa.

[6] Về vật chứng vụ án:

- 01 (một) kiềm cộng lực dài 30cm bằng sắt, cán bọc tay cầm bằng nhựa màu đen, phần kim loại màu xanh, tổng chiều dài cán là 23cm; 01 (một) đèn pin có chui sạc điện, vỏ nhựa màu đen- trắng- đỏ và 01 (một) chiếc bao nhựa màu xanh trắng là công cụ bị cáo thực hiện hành vi phạm tội hiện không còn giá trị sử dụng, nên tuyên tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) chiếc xe mô tô dáng Wave, vỏ nhựa màu đen, số khung 200100033, số máy VPF1P52FMH340004647, biển kiểm soát 61F8-5470 (tình trạng hiện tại: bị rỉ sét, mờ số khung). Nguyễn Thành T khai mua chiếc xe trên của một người lạ mặt ở Bình Dương vào năm 2014, quá trình sử dụng chiếc xe bị hư hỏng nên T xin bộ phận động cơ xe mô tô (biển số 71B2-794.42) của ông Nguyễn Văn M (là cha T), rồi tự lắp ráp vào xe biển số 61F8-5470, sau đó T sử dụng làm phương tiện phạm tội, hiện chưa xác minh được nguồn gốc của chiếc xe, nên giao cho Công an huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.

[7] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự còn qui định hình phạt bằng tiền, nhưng xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Đào Thanh V phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đào Thanh V 09 (chín) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 (một) kiềm cộng lực dài 30cm bằng sắt, cán bọc tay cầm bằng nhựa màu đen, phần kim loại màu xanh, tổng chiều dài cán là 23cm; 01 (một) đèn pin có chui sạc điện, vỏ nhựa màu đen- trắng- đỏ và 01 (một) chiếc bao nhựa màu xanh trắng.

- Giao 01 (một) chiếc xe mô tô dáng Wave, vỏ nhựa màu đen, số khung 200100033, số máy VPF1P52FMH340004647, biển kiểm soát 61F8-5470 (tình trạng hiện tại: bị rỉ sét, mờ số khung) cho Công an huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định để tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.

Hiện vật chứng trên Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/12/2019, giữa Công an huyện Tuy Phước và Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí tòa án: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo Bản án này trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 16/01/2020). Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2020/HS-ST ngày 16/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:01/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phước - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về