Bản án 01/2020/HS-ST ngày 14/01/2020 về tội đánh bạc và gá bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 01/2020/HS-ST NGÀY 14/01/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC VÀ GÁ BẠC

Trong ngày 14 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 165/2019/TLST-HS ngày 31 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2020/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 01 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Lê Dịu H – sinh năm: 1978, tại Đồng Nai; Nơi cư trú: Ấp PL1, xã PS, huyện TP, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Thợ cắt tóc; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Chí Ph (đã chết) và bà H Thị Kh – 1958; Vợ: Đỗ Thị Vân A – 1979; Có 03 con, lớn nhất sinh năm 2003, nhỏ nhất sinh năm 2016; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại. (có mặt)

2. Tống Đại V (tên gọi khác: B) – sinh năm: 1985, tại Đồng Nai. Nơi cư trú: Ấp PL3, xã PS, huyện TP, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Làm rẫy; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Tống Văn C – 1959 và bà Hà Thị Tr – 1961; Vợ: Ngô Thị Thu V3 – 1987; Chưa có con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại. (có mặt)

3. Phạm Thanh T – sinh năm: 1979, tại Lâm Đồng. Nơi cư trú: Ấp PL1, xã PS, huyện TP, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Làm rẫy; Trình độ học vấn: 4/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Phi T1 (đã chết) và bà Đỗ Thị Ph1 (đã chết); Vợ: Nguyễn Thị Ngọc T2 – 1988 (đã ly hôn); Có 02 con cùng sinh năm 2010; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại. (có mặt)

4. Nguyễn Quốc V1 – sinh năm: 1982, tại Đồng Nai. Nơi cư trú: Ấp PL1, xã PS, huyện TP, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Làm rẫy; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Đ – 1953 và bà Nguyễn Thị Ph3 – 1955; Vợ: Phạm Thị Tuyết M – 1984; Có 02 con, lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2012; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại. (có mặt)

5. Đinh Công Đ – sinh năm: 1990, tại Đồng Nai. Nơi cư trú: Ấp PL1, xã PS, huyện TP, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Làm rẫy; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đinh Văn Đ1 – 1952 và bà Hà Thị T4 – 1955; Vợ: Nguyễn Thị Huyền – 1995; Chưa có con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại. (có mặt)

- Người làm chứng:

+ Vũ Quốc V2 – sinh năm: 1988. (vắng mặt)

+ Đỗ Thị Vân A1 – sinh năm: 1979. (vắng mặt)

+ Nguyễn Văn Th – sinh năm: 1971. (vắng mặt)

Đa chỉ: Ấp PL1, xã PS, huyện TP, tỉnh Đồng Nai.

+ Trần Văn Tr1 – sinh năm: 1977. (vắng mặt)

Đa chỉ: Ấp 1, xã PA, huyện TP, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu, có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 09 giờ 30 phút ngày 13/9/2019 tại nhà Lê Dịu H, thuộc ấp PL1, xã PS, huyện TP, tỉnh Đồng Nai, Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Tân Phú lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Phạm Thanh T, Tống Đại V, Nguyễn Quốc V1, Đinh Công Đ đang có hành vi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền dưới hình thức chơi bài phỏm.

Tang vật thu giữ:

- Số tiền thu tại chiếu bạc là 26.400.000đ, 01 bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng, 01 cái chăn vải màu xám, số tiền 200.000đ trong ca nhựa.

- Thu giữ của Tống Đại V: 01 điện thoại di động hiệu Iphone X, 01 xe ô tô biển số 60C – 394.95.

- Thu giữ của Đinh Công Đ: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xám, 01 xe mô tô biển số 84D1 – 174.06.

- Thu giữ của Nguyễn Quốc V1: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6, 01 xe mô tô biển số 60N5 – 3023.

- Thu giữ của Phạm Thanh T: số tiền 31.300.000đ và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen.

Quá trình điều tra đã làm rõ được:

Khong 08 giờ ngày 13/9/2019, Phạm Thanh T, Tống Đại V, Nguyễn Quốc V1, Đinh Công Đ rủ nhau đến nhà Lê Dịu H, thuộc ấp PL1, xã PS, huyện TP, tỉnh Đồng Nai, để đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức chơi bài phỏm. Tại nhà H, cả nhóm xin đánh bài thì được H đồng ý, H lấy 01 bộ bài tây 52 lá và 01 tấm chăn màu xám để làm công cụ đánh bạc. Sau đó, V, V1, Đ, Tuấn ngồi xuống đánh bạc và thỏa thuận mỗi người đưa 50.000đ làm tiền xâu cho H để phục vụ mua nước và thuốc, người chơi nào Ù thì đưa thêm 50.000đ.

Cách thức đánh bài phỏm như sau: Người chia bài chia làm 04 tụ, người chia được 10 lá, những người còn lại 09 lá, phần bài còn lại để ở giữa. Người chia đánh 01 lá đầu tiên xuống, người ngồi bên phải có thể ăn nếu tạo thành phỏm (phỏm là 03 lá bài giống nhau trở lên hoặc 03 lá bài trở lên cùng chất liền nhau), nếu không ăn thì bốc bài ở dưới, đánh xoay vòng khi hết số bài ở giữa bàn. Ván bài kết thúc khi có một người Ù (ù là số bài trên tay sắp xếp thành phỏm và không thừa lá bài nào), nếu không ai Ù thì sau bốn vòng đánh, người chơi hạ phỏm và tính điểm còn trên tay (tính điểm theo số thứ tự tương đương A=1,…, J=11, Q=12, K=13), người ít điểm nhất là người thắng. Quá trình đánh bài, ai ăn con bài của người đánh gọi là gà; khi kết thúc ván bài không có phỏm là cháy; người chơi phải đền tiền cho cả 03 nhà còn lại khi bị người chơi bên cạnh ăn 03 quân bài dẫn đến Ù. Cách tính tiền: Ù: 250.000đ, Cháy: 200.000đ, Thua 3: 150.000đ, Thua 2: 100.000đ, Thua 1: 50.000đ, Gà 1: 50.000đ, Gà 2: 100.000đ, Gà 3: 150.000đ.

Số tiền của Phạm Thanh T, Tống Đại V, Nguyễn Quốc V1, Đinh Công Đ sử dụng vào mục đích đánh bạc như sau:

- Phạm Thanh T khai nhận mang theo số tiền 9.000.000đ sử dụng vào mục đích đánh bạc, khi bị bắt quả tang Tuấn thua 2.000.000đ, thu giữ số tiền 7.000.000đ.

- Tống Đại V khai nhận mang theo số tiền 8.000.000đ dùng vào mục đích đánh bạc. Khi bị bắt quả tang Việt thắng số tiền 3.900.000đ, thu giữ số tiền 11.900.000đ.

- Nguyễn Quốc V1 khai nhận mang theo số tiền 5.000.000đ dùng vào mục đích đánh bạc. Khi bị bắt quả tang V1 thua 200.000đ, thu giữ số tiền 4.800.000đ.

- Đinh Công Đ mang theo số tiền 2.000.000đ dùng vào mục đích đánh bạc. Khi bị bắt quả tang Đạo thắng số tiền 700.000đ, thu giữ số tiền 2.700.000đ.

Tổng số tiền dùng vào mục đích đánh bạc là 26.400.000đ.

Đi với Lê Dịu H có hành vi sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu của mình để cho các đối tượng đánh bạc, cung cấp bài, chăn vải làm công cụ đánh bạc và hưởng lợi từ việc thu tiền xâu, tại thời điểm bắt quả tang tổng số tiền dùng vào mục đích đánh bạc là 26.400.000đ.

Ti phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình theo đúng nội dung vụ án nêu trên.

Bản cáo trạng số 04/CT-VKSTP-ĐN ngày 26 tháng 12 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Lê Dịu H về tội “Gá bạc” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 322 của Bộ luật hình sự; truy tố các bị cáo Phạm Thanh T, Tống Đại V, Nguyễn Quốc V1, Đinh Công Đ về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự.

Ti phiên tòa hôm nay, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú giữ quyền công tố luận tội và tranh luận; phân tích dấu hiệu phạm tội; đánh giá các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đặc điểm nhân thân của các bị cáo. Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm c khoản 1 Điều 322, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 35, Điều 58 Bộ luật hình sự. Đề xuất mức hình phạt cho các bị cáo, cụ thể như sau:

- Lê Dịu H từ 50.000.000đ đến 60.000.000đ.

- Phạm Thanh T từ 20.000.000đ đến 30.000.000đ.

- Nguyễn Quốc V1 từ 20.000.000đ đến 30.000.000đ.

- Tống Đại V từ 20.000.000đ đến 30.000.000đ.

- Đinh Công Đ từ 20.000.000đ đến 30.000.000đ.

Về biện pháp tư pháp: Đề nghị:

- Tịch thu sung công số tiền 26.400.000đ sử dụng vào mục đích đánh bạc và số tiền 200.000đ tiền xâu hưởng lợi từ việc đánh bạc.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng, 01 cái chăn vải màu xám sử dụng làm công cụ cho việc đánh bạc vì không còn giá trị sử dụng.

- Buộc Lê Dịu H nộp lại số tiền thu lợi bất chính là 900.000đ.

Các bị cáo có lời nói sau cùng như sau: Các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phú, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Ti phiên tòa, các bị cáo Lê Dịu H, Phạm Thanh T, Tống Đại V, Nguyễn Quốc V1, Đinh Công Đ đã thành khẩn khai nhận tội. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử đủ cơ sở xác định:

Vào lúc 09 giờ 30 phút ngày 13/9/2019 tại nhà Lê Dịu H thuộc ấp PL1, xã PS, huyện TP, tỉnh Đồng Nai, H có hành vi sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu của mình, cung cấp bài, chăn vải làm công cụ đánh bạc và hưởng lợi từ việc thu tiền xâu 200.000đ để cho các đối tượng Phạm Thanh T, Tống Đại V, Nguyễn Quốc V1, Đinh Công Đ đánh bạc trái phép được thua bằng tiền dưới hình thức chơi bài phỏm. Khi Tuấn, V, V1, Đạo đang thực hiện hành vi đánh bạc thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Tân Phú bắt quả tang cùng tang vật. Số tiền dùng vào mục đích đánh bạc là 26.400.000đ.

Hành vi của các bị cáo trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng. Các bị cáo thực hiện hành vi trên với lỗi cố ý. Bản thân các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Do đó bị cáo Lê Dịu H đã phạm tội “Gá bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự; các bị cáo Phạm Thanh T, Tống Đại V, Nguyễn Quốc V1, Đinh Công Đ đã phạm tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

[3]. Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương. Đặc biệt, trong thời điểm hiện nay, tệ nạn cờ bạc diễn ra ngày càng phức tạp và là nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng của các nhóm tội phạm khác. Vì vậy để giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội cần thiết phải xét xử và áp dụng cho các bị cáo mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo.

[4]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo Tuấn, Việt, V, Đạo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra còn xem xét các bị cáo H, Tuấn, V đang nuôi con chưa thành niên là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6]. Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự.

[7]. Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án: Các bị cáo đều tham gia với vai trò là người thực hành. Vì vậy Hội đồng xét xử sẽ căn cứ vào mức độ tham gia vào việc phạm tội của các bị cáo để áp dụng mức hình phạt tương xứng.

[8]. Về hình phạt chính: Xét bị cáo H phạm tội nghiêm trọng, các bị cáo Tuấn, Việt, V, Đạo phạm tội ít nghiêm trọng. Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật hình sự áp dụng hình phạt chính là phạt tiền cũng đủ để răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

[9]. Về hình phạt bổ sung: Vì các bị cáo đã bị áp dụng hình phạt chính bằng hình thức phạt tiền nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[10]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với số tiền 26.400.000đ sử dụng vào mục đích đánh bạc và số tiền 200.000đ tiền xâu hưởng lợi từ việc đánh bạc. Xét thấy số tiền trên liên quan đến việc phạm tội và là tiền do phạm tội mà có. Căn cứ vào quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng, 01 cái chăn vải màu xám sử dụng làm công cụ cho việc đánh bạc. Xét thấy các vật chứng trên liên quan đến việc phạm tội và không còn giá trị sử dụng. Căn cứ vào quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với một điện thoại di động hiệu Iphone X, 01 xe ô tô biển số 60C – 394.95 của Tống Đại V; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh, 01 xe mô tô biển số 84D1 – 174.06 của Đinh Công Đ; số tiền 31.300.000đ, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen của Phạm Thanh T; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6, 01 xe mô tô biển số 60N5 – 3023 Nguyễn Quốc V1. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Phú đã giao trả cho các chủ sở hữu hợp pháp. Xét thấy các tài sản trên không liên quan đến việc phạm tội nên giao trả cho các chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp quy định của pháp luật.

[11]. Về các vấn đề khác: Lê Dịu H đã nhận được tiền xâu từ việc cho các bị cáo mượn địa điểm, cung cấp công cụ đánh bạc với số tiền 900.000đ. Xét số tiền trên là khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội. Căn cứ vào quy định tại điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

[12]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

[13]. Xét quan điểm đề nghị của Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm c khoản 1 Điều 322, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật hình sự cho bị cáo H;

- Khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1, Điều 51, Điều 58, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật hình sự cho các bị cáo T, V, V1, Đ;

- Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho các bị cáo H, T, V1;

- Điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

- Các điểm a, b khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên bố:

Bị cáo Lê Dịu H phạm tội “Gá bạc”.

Các bị cáo Phạm Thanh T, Tống Đại V, Nguyễn Quốc V1, Đinh Công Đ phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt:

- Bị cáo Lê Dịu H 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng.) - Bị cáo Phạm Thanh T 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).

- Bị cáo Tống Đại V 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).

- Bị cáo Nguyễn Quốc V1 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).

- Bị cáo Đinh Công Đ 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).

Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 26.600.000đ (Hai mươi sáu triệu sáu trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 002101 ngày 30 tháng 12 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tây 52 lá, 01 cái chăn vải màu xám đã qua sử dụng. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30 tháng 12 năm 2019).

Buộc bị cáo Lê Dịu H phải nộp sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 900.000đ (Chín trăm nghìn đồng).

Về án phí: Buộc các bị cáo Lê Dịu H, Phạm Thanh T, Tống Đại V, Nguyễn Quốc V1, Đinh Công Đ, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

299
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2020/HS-ST ngày 14/01/2020 về tội đánh bạc và gá bạc

Số hiệu:01/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về